(Thuốc Thủy Sản Tiệp Phát) Tổng hợp tin tức về nông nghiệp – thủy sản tháng 3/2023.
Vĩnh Long: Giá ếch tăng cao, nông dân thu lãi hơn 10.000 đ/kg
Theo các hộ nông dân nuôi ếch, hơn 1 tháng nay, giá ếch thương phẩm ổn định ở mức 50.000 đ/kg trở lên. Đây là mức giá cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây.
Với đặc điểm nuôi khá đơn giản, tỷ lệ hao hụt thấp, nên thời gian gần đây diện tích nuôi ếch tại huyện Long Hồ được nhân rộng. Các xã có diện tích nuôi ếch nhiều là: Phú Quới, Thạnh Quới và Lộc Hòa.
Ngoài nguồn thức ăn chủ yếu là thức ăn công nghiệp, người nuôi ếch còn tận dụng thời gian nhàn rỗi ra đồng bắt thêm ốc bưu vàng cho ếch ăn để giảm chi phí đầu tư.
Các hộ nuôi ếch tính toán, chi phí đầu tư nuôi 1kg ếch thương phẩm tốn khoảng 35.000-38.000đ. Với giá bán như hiện nay, người nuôi ếch thu lãi hơn 10.000 đ/kg.
Bảng giá thủy sản tuần 20/03/2023 – 26/03/2023
Bảng giá một số mặt hàng thủy sản cập nhật mới nhất hôm nay, giá thủy sản tuần 20/03 – 26/03/2023.
TÊN MẶT HÀNG | ĐƠN GIÁ (VNĐ) | ĐƠN VỊ TÍNH | NGÀY BÁO GIÁ | ĐỊA PHƯƠNG |
Cá tra thịt trắng | 44.000 – 46.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Lươn loại 2 | 150.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Lươn loại 1 | 160.000 – 180.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Ếch nuôi | 55.000 – 60.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Tôm càng xanh | 230.000 – 240.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Cá lóc nuôi | 50.000 – 55.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Cá nàng hai | 70.000 – 72.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Cá điêu hồng | 53.000 – 55.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Cá rô phi | 40.000 – 45.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | An Giang |
Tôm sú | 519.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Tôm thẻ | 289.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Tôm càng xanh | 189.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Bề bề hấp sơ | 149.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Sò gạo | 89.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Sò huyết | 199.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Ghẹ xanh loại 3-5 con/kg | 499.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Tôm càng Sen | 199.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Cua Cà Mau loại 5-6 con/kg | 349.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Cua Cà Mau loại 4 con/kg | 449.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Cua Cà Mau loại 3 con/kg | 550.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Cua Cà Mau loại 2 con/kg | 599.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Ngao hoa | 119.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Ngao trắng | 30.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Mực ống loại 3-4 con/kg | 330.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Mực khô loại 8-10 con/kg | 1.300.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Tôm hùn loại 4 con/kg | 480.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Ghẹ nang đỏ | 349.000 | đồng/kg | 23/3/2023 | Hà Nội |
Cá hồi | 300.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Sò dương | 100.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Cá đuối | 120.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Ruột ốc Giác loại 2-3 con/kg | 295.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Bạch tuộc | 190.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Tuộc Baby | 90.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Tôm hùm Baby | 380.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Tôm tích thịt | 170.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Tôm tích gạch | 320.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Cua thịt loại 5-6 con/kg | 210.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Cua thịt loại 3-4 con/kg | 320.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Tôm Alaska | 1.300.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Chân cua Kingcrab | 1.350.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Cua nâu Sofrimar | 390.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Tôm hùm Úc | 1.300.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Bào ngư Hàn Quốc | 1.050.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Bào ngư Úc | 1.350.000 | đồng/kg | 22/3/2023 | TP Hồ Chí Minh |
Cá tra tại ao | 30.000 | đồng/kg | 21/3/2023 | Đồng Tháp |
Ếch (tại trại) | 60.000 | đồng/kg | 21/3/2023 | Sóc Trăng |
Cá lóc nuôi tại ao | 46.000 | đồng/kg | 21/3/2023 | Đồng Tháp |
Cá điêu hồng tại ao | 43.000 | đồng/kg | 21/3/2023 | Đồng Tháp |
Cá rô phi tại ao | 35.000 | đồng/kg | 21/3/2023 | Đồng Tháp |
Đồng Tháp: Giá cá tra tăng cao, người nuôi lãi 3.000 – 4.000 đồng/kg
Ông Huỳnh Tất Đạt, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp thông tin, từ đầu năm đến nay, diện tích nuôi cá tra của tỉnh đạt 1.507,77 ha, đạt 128% chỉ tiêu kế hoạch quý I/2023, diện tích thu hoạch hơn 166 ha, sản lượng thu hoạch hơn 83.000 tấn.
Giá cá tra nguyên liệu 30.000 – 31.000 đồng/kg, chi phí trung bình để sản xuất 1 kg cá nguyên liệu khoảng 26.990 đồng/kg, với mức giá này người nuôi lãi từ 3.000 – 4.000 đồng/kg.
Theo người dân địa phương, một ao cá tra nuôi 6 tháng tuổi, với diện tích mặt nước khoảng 1 ha sẽ tiêu tốn 180 bao thức ăn công nghiệp/ngày, cho năng suất từ 180 – 280 tấn/ha cho hiệu quả kinh tế cao.
Ông Lê Minh Triển ở xã Bình Thạnh, thành phố Hồng Ngự có 9 ao nuôi cá tra, tổng diện tích hơn 9 ha cho biết, giá cá tra xuất bán đạt khoảng 30.000 đồng/kg, cao hơn cùng kỳ năm 2021 khoảng 6.000 đồng mỗi kg, người nuôi lãi hơn 4.000 đồng/kg.
Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có 22 doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu, tổng công suất thiết kế hơn 467 tấn thành phẩm/năm. Hiện nay, sản phẩm cá tra được xuất khẩu sang 134 quốc gia; trong đó có các thị trường chủ lực như: Trung Quốc, Mỹ, ASEAN, EU, Anh, Mexico, Brazil, Colombia. Nuôi cá tra không chỉ mang lại những giá trị kinh tế cho địa phương mà còn góp phần tạo ra chuỗi ngành nghề liên quan, giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động trong tỉnh Đồng Tháp.
Đồng Tháp đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung quy mô lớn tại các huyện: Thanh Bình, Tam Nông, Tân Hồng, Châu Thành Hồng Ngự và Cao Lãnh. Các vùng sản xuất cá tra trong tỉnh Đồng Tháp đã được cấp 368 mã số nhận diện ao nuôi cá tra thương phẩm với diện tích hơn 1.509 ha; trong đó, 60% diện tích thả nuôi cá tra đạt chuẩn quốc tế. Nhiều vùng nuôi cá tra sản xuất theo quy trình, quy chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC. Chuỗi liên kết, hợp tác trong sản xuất cá tra ở Đồng Tháp phát triển tương đối bài bản và khép kín.
Để sản xuất, ổn định vùng nuôi cá tra trong tỉnh, ông Huỳnh Minh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp đưa ra mục tiêu phát triển ngành hàng cá tra bền vững, hiện đại dựa trên việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, có giá trị cao, đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và an toàn thực phẩm của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Chỉ tiêu là Phát triển diện tích nuôi cá tra đến năm 2025 là 2.450 ha, với sản lượng 555.000 tấn tương đương giá trị sản xuất (theo giá so sánh 2010) đạt 9.046,5 tỷ đồng, chiếm 17,2% cơ cấu giá trị ngành nông, lâm, thuỷ sản (tăng 0,38% so với năm 2020). Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 980 triệu USD.
Nguyễn Văn Trí (Báo Tin Tức)
Vĩnh Long: Giá thủy sản nuôi ổn định ở mức cao
Theo Sở Nông nghiệp-PTNT, từ đầu năm đến nay, giá các loại thủy sản nuôi ổn định ở mức cao, người nuôi có lãi khá.
Cụ thể, giá cá tra cao nhất là 31.000 đ/kg, tăng 6.000 đ/kg so với cùng kỳ năm trước; giá cá lóc nuôi là 50.000 đ/kg, tăng 20.000 đ/kg; giá cá điêu hồng, cá rô phi cao nhất là 41.000 đ/kg, tăng 7.000 đ/kg; các trê lai, cá rô nuôi 35.000 đ/kg, tăng 5.000 đ/kg so với cùng kỳ năm trước.
Toàn tỉnh hiện có trên 214ha ao, hầm đang cá tra thâm canh, 1.177 lồng, bè đang thả nuôi (tăng 33 chiếc so với cùng kỳ).
MỸ TRUNG (Báo Vĩnh Long)
Bến Tre: Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để phát triển nghề nuôi thủy sản
Hiện tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh đạt 47.800ha; trong đó, nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh 12.500ha, phát triển thêm 500ha nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao, lũy kế đến cuối năm 2023 đạt 3067ha. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 334.500 tấn; trong đó, sản lượng tôm nước lợ đạt 94.500 tấn, cá tra 205.000 tấn. Tập trung nguồn lực phối hợp với các địa phương rà soát hỗ trợ các cơ sở nuôi tôm nước lợ đăng ký đối tượng nuôi chủ lực phục vụ truy xuất nguồn gốc phục vụ cho chế biến xuất khẩu.
Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, trên cơ sở những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức đã được xác định, ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục phối hợp với các sở, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp cùng với các nhà đầu tư tập trung triển khai các giải pháp để phát triển nghề nuôi thủy sản gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức lại sản xuất, khuyến khích hợp tác, liên kết sản xuất dựa trên các hộ/cơ sở nuôi phân tán, nhỏ lẻ thành các tổ hợp tác, hợp tác xã (mục tiêu là mỗi huyện thành lập 1 hợp tác xã nuôi tôm công nghệ cao 10 tỷ đồng/ hợp tác xã). Rà soát, đánh giá xác định những khâu yếu trong chuỗi giá trị các đối tượng thủy sản chủ lực của tỉnh để củng cố, nâng cấp nhằm tạo sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến tiêu thụ…
Đầu tư cơ sở hạ tầng trong nuôi tôm nước lợ, phối hợp với Ban Quản lý dự án các công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng địa phương triển khai nhanh dự án hạ tầng (thủy lợi, đường giao thông) vùng nuôi tôm tập trung trên địa bàn huyện Ba Tri, Bình Đại.
Tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ Trung ương, các dự án cụ thể DAWB 11 giai đoạn 2023 – 2026 để đề xuất xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi tôm nước lợ huyện Thạnh Phú. Phối hợp với Công ty Điện lực Bến Tre ưu tiên đầu tư hệ thống điện 3 pha cho các vùng nuôi nước lợ tập trung trên địa bàn 3 huyện biển.
Ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) vào sản xuất. Phối hợp với Sở KH&CN và các sở, ngành có liên quan huy động các nguồn lực trong và ngoài tỉnh tham gia đầu tư hợp tác nghiên cứu triển khai ứng dụng KH&CN mới để phát triển nghề nuôi tôm. Vận động người dân, doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tham gia sản xuất trong vùng nuôi tôm tập trung. Phối hợp với Công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật nuôi tôm công nghệ cao quy mô nhỏ (1 – 2ha), phù hợp với điều kiện sản xuất của người dân. Đây là yếu tố then chốt để đạt mục tiêu xây dựng vùng nuôi tôm công nghệ cao tập trung cũng như đủ điều kiện phát triển 4.000ha vào năm 2025.
Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước triển khai các chính sách cho vay vốn nuôi tôm nước lợ theo Nghị định số 116/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Vận động, thu hút đầu tư ít nhất 1 – 2 nhà máy chế biến tôm tại tỉnh, góp phần nâng cao giá trị chuỗi tôm của tỉnh, trong đó Bình Đại phải có 1 nhà máy tại Khu công nghiệp Phú Thuận.
Liên kết phối hợp với các doanh nghiệp sản xuất cung cấp đầu vào về con giống, thức ăn, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường và doanh nghiệp chế biến, phân phối tiêu thụ sản phẩm cùng với ngành nông nghiệp tổ chức tập huấn, đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn trong nuôi tôm nước lợ để người sản xuất và các doanh nghiệp tiếp cận các tiến bộ kỹ thuật và tiếp cận thị trường tiêu thụ sản phẩm tôm. Quan tâm hình thành các hợp tác xã để xây dựng các quy chuẩn phù hợp đáp ứng thị trường thế giới để có đầu ra ổn định lâu dài.
“Tỉnh sẽ đề xuất kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét tiếp tục hỗ trợ nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng nuôi thủy sản cho tỉnh. Cụ thể là Dự án Đầu tư hạ tầng kỹ thuật vùng nuôi tôm công nghệ cao huyện Bình Đại, Thạnh Phú. Hiện nay, người nuôi tôm nước lợ đang gặp khó khăn về tiếp cận nguồn vốn sản xuất, vì vậy, đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước có chính sách về vốn, cho vay ưu đãi, nâng tỷ lệ vốn vay đối với các hộ nuôi thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ”.
(Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Văn Buội)
Bài, ảnh: Hoàng Lam (Báo Đồng Khởi)
Thủy sản xuất khẩu vẫn tiềm ẩn nhiều biến số
Không phải chuyện thiếu vốn hay khó tiếp cận tín dụng vì lãi suất cao, mà một trong những nguyên nhân chính khiến ngành thủy sản lâm vào thế khó khăn, doanh thu và lợi nhuận năm 2023 nhiều khả năng sẽ giảm mạnh chính là việc kinh tế toàn cầu đối diện với lạm phát cao, nguy cơ suy thoái, sức cầu giảm, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu.
Trong 2 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm và cá tra đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Đây là điều không quá bất ngờ với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản bởi nó đã được dự báo từ sớm và không thể tránh khỏi. Thậm chí, tình hình trên có thể còn kéo dài cho đến hết quý III-2023. Điều này là hoàn toàn có cơ sở khi các công ty chứng khoán như Rồng Việt hay SSI Research… đều có chung nhận định, hàng tồn kho tại các thị trường lớn của tôm và cá tra Việt Nam phải đến quý III-2023 mới được xử lý hoàn toàn và các đơn hàng mới trong năm cũng chỉ có thể bắt đầu được giao trong khoảng thời gian này. Nhận định này là khá tương đồng với thông tin về thị trường tôm mà ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần thực phẩm Sao Ta (Sóc Trăng) trao đổi với người viết vào đầu tháng 2, rằng các hệ thống phân phối lớn đều cho giá tôm giao từ quý III trở đi, nhưng ở mức rất thấp so với giá tôm nguyên liệu trong nước.
Trong tuần cuối của tháng 2, giá tôm khu vực ĐBSCL nhìn chung có sự giảm nhẹ nhưng vẫn đảm bảo một mức lợi nhuận tương đối khá cho người nuôi, nếu đạt năng suất. Tuy nhiên, theo các thương lái, đại lý đang thu mua tôm cho các nhà máy và cả tôm ô xy (tôm tươi sống) tiêu thụ nội địa, từ tháng 3 trở đi cho đến hết tháng 5, giá tôm nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm thêm, chứ khó có thể tăng trở lại như những tháng đầu năm. Cũng theo các đại lý, do từ cuối năm 2022 đến nay, khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ chịu ảnh hưởng nhiều đợt không khí lạnh, nền nhiệt độ giảm mạnh, nên hầu hết diện tích nuôi tôm vụ Đông đều thiệt hại hoặc chỉ thu hoạch được tôm cỡ nhỏ. Vì vậy, giá tôm sú và tôm thẻ (từ cỡ trung đến cỡ lớn) ở khu vực này cao hơn 100.000 đồng/kg so với giá tôm khu vực ĐBSCL. Đây chính là một trong những nguyên nhân giúp giá tôm duy trì ở mức cao dù hầu hết các nhà máy chế biến đều đã giảm công suất 30-50%.
Trao đổi thêm với người viết về thông tin này, ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần thủy sản sạch Việt Nam (Sóc Trăng), cho biết điều này còn tùy vào lượng tôm thu hoạch nhiều hay ít, các doanh nghiệp có tìm được hợp đồng mới giá tốt hay không… Theo lịch thời vụ thì hầu hết các vùng nuôi tôm trong tỉnh đều bắt đầu thả tôm từ tháng 12-2022, nên bước sang tháng 3, số diện tích thu hoạch sẽ nhiều hơn so với 2 tháng đầu năm. Ông Phục chia sẻ: “Giả sử, trong trường hợp trúng mùa, lượng tôm thu hoạch nhiều, trong khi các doanh nghiệp vẫn chưa có nhiều đơn hàng mới nên gần như chắc chắn giá tôm sẽ giảm so với hiện tại. Từ tháng 4 trở đi, lượng tôm thu hoạch sẽ tăng dần lên cho đến hết tháng 8 và nếu thị trường vẫn chưa được cải thiện giá tôm sẽ còn giảm mạnh hơn nữa”.
Trái ngược với con tôm, giá cá tra tăng trở lại từ mức 27.000-28.000 đồng/kg lên 30.000-31.000 đồng/kg và được dự báo nhiều khả năng sẽ đạt mức 35.000 đồng/kg trong những tháng tới. Đó là nhờ nhu cầu từ thị trường Trung Quốc tăng lên sau khi nước này dỡ bỏ nhiều biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 nghiêm ngặt trước đây và cùng với đó là lượng cá tra trong nước không còn nhiều do giá cả giảm thời gian qua, khiến người nuôi không có lời. Ngay cả khi giá cá tra tăng trở lại như hiện nay, tính ra người nuôi cũng chỉ có lợi nhuận khoảng 1.000 đồng/kg. Với mức lợi nhuận này, hầu hết người nuôi cá tra ở Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang đều cho rằng chỉ mới giúp người nuôi thoát lỗ, chứ chưa thể gọi là lời nếu so với lãi suất tiền gửi ngân hàng. Trong khi đó, giai đoạn từ nuôi đến thu hoạch mất từ 8 tháng trở lên, nên hiện người nuôi vẫn đắn đo, cân nhắc liệu có nên thả nuôi tiếp hay không vì ngoài thị trường Trung Quốc, các thị trường lớn khác vẫn đang khá ảm đạm.
Liên quan đến khó khăn về nguồn vốn do khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng lãi suất cao, các doanh nghiệp cho rằng, chỉ có doanh nghiệp nào có cơ cấu vốn tín dụng cao thì mới thật sự gặp khó, còn các doanh nghiệp chỉ sử dụng 15-20% vốn vay tín dụng thì không ảnh hưởng nhiều. Giám đốc một doanh nghiệp không muốn nêu tên, cho biết: “Trong thời điểm hiện tại, cho dù có tiền, có tôm nhiều cũng đâu có doanh nghiệp nào dám đẩy mạnh thu mua, tăng công suất chế biến. Nguyên nhân là giá tôm trong nước hiện đang rất cao, giá xuất thì thấp, đơn hàng thì gần như bằng không. Trong khi đó, nguyên tắc gần như bất di, bất dịch là: doanh nghiệp chỉ thu mua dự trữ khi tôm nhiều, giá rẻ, lãi suất vừa phải và nhất là phải nhìn thấy được tín hiệu khả quan từ thị trường trong 1-3 tháng tới. Vì vậy, theo tôi, khó khăn lớn nhất hiện nay của doanh nghiệp là ở sức tiêu thụ giảm mạnh do tác động từ lạm phát. Khi nhu cầu tăng trở lại, tự khắc doanh nghiệp sẽ tìm được vốn và người nuôi sẽ đẩy mạnh diện tích thả nuôi”.
Trước tình hình khó khăn chung, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản phần lớn đều chọn giải pháp cơ cấu lại thị trường theo hướng chuyển mạnh về thị trường gần, như Nhật, Hàn Quốc, Úc, Trung Quốc… và phát huy lợi thế chế biến sâu để duy trì thị phần, tránh giảm sâu doanh số và lợi nhuận. Đây là bước đi được đánh giá là phù hợp, nhất là đối với doanh nghiệp ngành tôm, nhưng theo các doanh nghiệp, với giá tôm và lãi suất tín dụng trong nước cao như hiện nay, cùng với tình hình lạm phát diễn ra toàn cầu, rất khó để doanh nghiệp có thể tăng thêm công suất chứ đừng nói tới chuyện mở rộng sản xuất. Riêng đối với doanh nghiệp cá tra, dù thị trường Trung Quốc khởi sắc trở lại, nhưng nhìn chung vẫn khó có thể tạo nên đột biến, đặc biệt là ở giá tiêu thụ, nên doanh nghiệp cũng khó có điều kiện để hỗ trợ nhiều hơn về giá cho người nuôi nhằm giúp gia tăng diện tích, sản lượng như kỳ vọng.
Bài, ảnh: HOÀNG NHÃ (Báo điện tử Cần Thơ)
Trà Vinh: Cá lóc đều đặn tăng giá, đạt 50.000 đồng mỗi kg
Từ cuối năm 2022, giá lóc tại Trà Vinh bắt đầu tăng từ mức 35.000 đồng/kg lên 40.000-42.000 đồng/kg và đến nay lên mức cao nhất 48.000-50.000 đồng/kg.
Nông dân chuyên nghề nuôi cá lóc (cá quả) ở tỉnh Trà Vinh rất phấn khởi nhờ giá cá lóc thương phẩm từ đầu tháng 3 đến nay được thương lái thu mua tại ao từ 48.000-50.000 đồng/kg (tùy kích cỡ).
Với giá cá này, nông dân lãi ròng 15.000 đồng/kg cá thương phẩm.
Ông Thạch Thiên, hộ chuyên nuôi cá lóc ở xã Đại An, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh cho biết từ cuối năm 2022, giá lóc bắt đầu tăng từ mức 35.000 đồng/kg lên 40.000-42.000 đồng/kg và đến nay lên mức cao nhất 48.000-50.000 đồng/kg.
Giá cá lóc tăng và ổn định là do thời điểm cuối vụ nuôi, nguồn cung cá thương phẩm giảm so với thời điểm tháng 10-11.
Bên cạnh đó, rút kinh nghiệm về thị trường qua nhiều năm, nên người nuôi cá lóc đã chuyển sang nuôi rải vụ, luân canh thả cá giống để tránh thu hoạch tập trung, bị rớt giá.
Ông Huỳnh Văn Thảo, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Trà Cú cho biết Trà Cú là địa phương có diện tích nuôi cá lóc nhiều nhất tỉnh.
Toàn huyện có diện tích ao nuôi cá lóc gần 450 ha, với hơn 1.500 hộ dân nuôi. Tổng sản lượng cá lóc thương phẩm thu hoạch năm 2022 ước đạt 46.250 tấn, chiếm 80 % sản lượng cá lóc thương phẩm nuôi của toàn tỉnh.
Hầu hết hộ dân chuyên nuôi cá lóc đều nuôi 2 vụ/năm, với thời gian nuôi khoảng 5 tháng thu hoạch, cá đạt trọng lượng từ 0,7-1,2 kg/con.
Với mức giá cá thương phẩm 40.000 đồng/kg, người nuôi đã đạt lợi nhuận 40-50 triệu đồng/1.000m2 mặt nước ao.
Theo ông Huỳnh Văn Thảo, phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện cùng chính quyền địa phương đang khuyến khích nông dân nuôi cá lóc bố trí hệ thống ao an toàn, gồm ao nuôi, ao lắng cung cấp nước, ao xả thải để tránh ô nhiễm.
Ngoài ra, hộ nuôi cá cần bố trí thêm ao nuôi dự phòng để thả con giống luân canh, giảm thu hoạch tập trung, hạn chế được tình trạng cung vượt cầu bị rớt giá.
Nông dân có sẵn ao nuôi dự phòng khi thu hoạch chọn cá chưa đạt kích cở tiếp tục nuôi để bán được giá.
Phúc Sơn (TTXVN/Vietnam+)