Tin Thủy Sản tuần 04/07 – 10/07/2022

(Thuốc Thủy Sản Tiệp Phát) Tổng hợp tin tức về nông nghiệp – thủy sản trong tuần từ 04/07/2022 – 10/07/2022.


Hậu Giang: Giá cá thát lát tăng mạnh do nguồn cung khan hiếm

Hiện giá cá thát lát đang tăng cao, dao động từ 70.000-75.000 đồng/kg. Giá thành phẩm hiện tăng từ 10-20%. Ông Phạm Văn Khởi, ở huyện Phụng Hiệp, cho biết giá cá thát lát đang tăng mạnh, cao nhất 2-3 năm nay, nhưng hiện nguồn cá trong dân không còn nhiều, chủ yếu cá còn tồn từ trước. Do số bà con tới thời điểm này mới thu hoạch nên chi phí nuôi mỗi ký cá trên dưới 60.000 đồng. Dù giá cá đang khởi sắc, nhưng tính ra không có lãi nhiều.

Trong khi đó, giá cá giống ở mức khá cao (loại 1kg hơn 200 con) có giá 2.000-2.200 đồng/con, tăng gần gấp đôi so với trước. Về lâu dài, để ổn định đầu ra rất cần sự quy hoạch vùng nuôi bài bản, gắn với liên kết đầu ra để ổn định vùng nuôi, đảm bảo nông dân có lãi sau mỗi vụ.

Được biết, năm 2021, diện tích nuôi thủy sản của toàn tỉnh Hậu Giang là 8.135ha, trong đó diện tích nuôi cá thát lát là 88ha, tập trung nhiều ở huyện Phụng Hiệp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, đầu ra cho sản phẩm gặp nhiều khó khăn, hơn nữa giá thức ăn tăng mạnh khiến nhiều hộ buộc phải treo ao, một số ít nuôi cầm chừng chờ giá lên nên hiện số lượng cá nguyên liệu còn trong dân không nhiều.

NGUYÊN TOÀN (Báo Hậu Giang)


An Giang: Ương dưỡng cá heo cho hiệu quả kinh tế cao

Trong bối cảnh giá thức ăn tăng cao, người chăn nuôi gặp nhiều khó khăn thì việc chọn đối tượng nào để nuôi có hiệu quả là vấn đề nhiều nông dân trăn trở.

Đối với gia đình ông Hồ Ngọc Em (xã Hòa Lạc, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang), thay vì chọn con cá dứa, cá giáo, mè hôi, trạch lấu để nuôi thì ông chọn ương dưỡng, nuôi cá heo đuôi đỏ để bán cho các quán ăn, nhà hàng lớn trong cả nước.

Ông Hồ Ngọc Em cho biết, sở dĩ gia đình ông chọn con cá heo đuôi đỏ để ương dưỡng, nuôi thành cá thương phẩm bán cho người tiêu dùng, thương lái là bởi đối tượng nuôi này có giá bán rất cao. Cụ thể, đầu tháng 7/2022, mẫu 25-30 con/kg, thương lái đến tận bè mua với giá 450.000 đồng/kg. Mẫu 15-20 con/kg, giá mua trên 500.000 đồng/kg. Đây là mãi lực khiến gia đình ông không rời bỏ đối tượng nuôi này dù quá trình nuôi đòi hỏi tay nghề, kỹ thuật rất cao.

“Vụ vừa rồi, gia đình thả nuôi 700kg cá giống (mẫu 300-400 con/kg), sau 9 tháng nuôi, thu hoạch được 2,2 tấn cá thương phẩm, sau khi trừ chi phí, tôi lời trên 300 triệu đồng. Tôi tích cóp tiền lời để nuôi thêm nhiều bè cá heo nữa…” – ông Hồ Ngọc Em chia sẻ.

Cá heo có tên khoa học “Botia modesta bleeker”. Đây là giống cá nước ngọt, loại cá da trơn, sinh sống ở sông Tiền, sông Hậu. Cá có thịt trắng, thơm, béo ngậy, chế biến được nhiều món ăn, như: Kho tiêu, nướng muối ớt, nấu canh chua mẻ cùng nhiều món ăn khác. Từ lâu, cá heo được người tiêu dùng xếp vào loại cá đặc sản của vùng đầu nguồn lũ.

Hơn 10 năm trở lại đây, do các nước thượng nguồn, như: Trung Quốc, Lào, Myanmar… đắp nhiều đập thủy điện, từ đó loài cá này trong thiên nhiên ngày càng ít đi. Nắm được vấn đề này, đầu năm 2010, TS. Dương Nhật Long, khi đó là Trưởng khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ đã đề xuất với Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh cho ông và các cộng sự thực hiện đề tài khoa học “Kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá heo trên địa bàn tỉnh”.

Đề tài được thực hiện trong 3 năm, cụ thể từ tháng 5/2010 đến 12/2013 và tháng 4/2014, Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh chính thức nghiệm thu đề tài. Thành công này đã mở ra triển vọng vô cùng lớn đối với ngành nuôi thủy sản tại ĐBSCL nói chung và An Giang nói riêng. Cũng từ đây, ngành thủy sản đã chủ động được con giống cá heo đuôi đỏ, không còn phụ thuộc vào thiên nhiên như trước đây.

Ngay sau khi công trình khoa học thành công và được chuyển giao cho cộng đồng, ngoài các trung tâm giống của các tỉnh An Giang, Đồng Tháp thì các hộ chuyên làm cá giống tại huyện Hồng Ngự (tỉnh Đồng Tháp), xã Vĩnh Hòa (TX. Tân Châu, tỉnh An Giang) đã nhanh chóng tiếp cận công nghệ, bắt cá thiên nhiên nuôi vỗ béo rồi cho đẻ trứng để ương dưỡng, nuôi thành cá thương phẩm xuất bán cho thương lái cả nước. Gia đình ông Hồ Văn Em là một trong số đó.

“Ương dưỡng cá heo là nghề cho hiệu quả kinh tế cao. Mấu chốt của nghề là nằm ở chỗ kỹ thuật ương nuôi, chăm sóc và phải thực sự hiểu được tập quán sinh sống của cá thì mới thành công” – ông Em cho biết.

Quá trình ương dưỡng từ con bột lên cá hương, con giống là một nghệ thuật, bởi đây là loài cá sống hoang dã, nay con người bắt để thuần dưỡng cho thành thục rồi cho chúng sinh sản nhân tạo. Từ sinh sống trong môi trường thiên nhiên, nay cá heo trở về sống trong môi trường nhân tạo, dòng nước khép kín, có kiểm soát, từ đó mà mọi yếu tố sinh trưởng của cá đã thay đổi.

Những năm đầu nghiên cứu, thuần dưỡng cá, tỷ lệ cá hao hụt trong giai đoạn này rất lớn. Về sau, các nhà khoa học lẫn ngư dân hiểu hơn về tập quán sinh hoạt, ăn mồi của cá, nên hạ được tỷ lệ hao hụt. Ông Em cho biết, giai đoạn ương dưỡng cá giống kéo dài trên 2 tháng. Lúc này, cá giống đã quen với nguồn nước, khí hậu, thức ăn và chế độ dinh dưỡng nên khi thả cá ra bè nuôi, cá không bị sốc nước, sốc nhiệt độ cùng nhiều yếu tố khác, chính điều đó mà gia đình ông đã thành công.

Hơn 10 năm trước, ở xã Vĩnh Hội Đông (huyện An Phú) có ông Bùi Chí Linh, nuôi thành công cá heo đuôi đỏ thì giai đoạn này, ngoài ông Linh còn có ông Hồ Ngọc Em (xã Hòa Lạc, huyện Phú Tân), ông Tư Kỳ (xã Vĩnh Xương, TX. Tân Châu), ông Út Nở (xã Bình Hòa, huyện Châu Thành) nuôi thành công cá heo đuôi đỏ. Ngoài tiêu thụ trong nước (nhà hàng và các quán ăn lớn), cá heo đuôi đỏ còn được người thân của kiều bào các nước: Hoa Kỳ, Canada, Úc, Hàn Quốc, Đài Loan… mua cấp đông, sau đó gửi hoặc mang đi trực tiếp ra nước ngoài. Chính yếu tố thị trường rất chuộng loài cá này, nên khi ngư dân nuôi được cá lớn, bán trên 500.000 đồng/kg.

“Nếu so với các loài cá khác thì cá heo ăn rất thơm, ngon. Về hiệu quả kinh tế, ương dưỡng, nuôi thương phẩm loài cá này cho hiệu quả kinh tế rất cao” – ông Nguyễn Văn Kỳ (xã Vĩnh Xương, TX. Tân Châu) khẳng định.

MINH HIỂN (Báo An Giang)


Tây Ninh: Sở NN&PTNT triển khai đợt thanh tra, kiểm tra chất lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, hạt giống, cây giống lần 2, năm 2022

Sáng 6.7, Đoàn Thanh tra Sở Nông nghiệp và Phát triển nộng thôn (Sở NN&PTNT) do bà Võ Thị Ngoan- Chánh Thanh tra làm trưởng đoàn kiểm tra tại các cơ sở kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trên địa bàn hai xã Phước Bình và Phước Chỉ thị xã Trảng Bàng.

Đoàn Thanh tra Sở NN&PTNT tiến hành kiểm tra tại cơ sở kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tại xã Phước Bình

Đây là hoạt động nằm trong kế hoạch thực hiện Quyết định số 231/QĐ-SNN ngày 28.6.2022 của Giám đốc Sở NN&PTNT, về việc thanh tra phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), hạt giống, cây giống tại các cơ sở sản xuất và kinh doanh (đợt 2), năm 2022 trên địa bàn tỉnh.

Tại mỗi nơi, đoàn kiểm tra về điều kiện sản xuất, kinh doanh phân bón, thuốc BVTV, hạt giống, cây giống, giấy phép kinh doanh, giấy đủ điều kiện mua bán; hồ sơ chất lượng, xuất xứ và nguồn gốc sản phẩm.

Bên cạnh đó, đoàn thực hiện lấy mẫu phân tích chất lượng phân bón, thuốc BVTV, hạt giống, cây giống, trong đó, tập trung vào các sản phẩm có nghi ngờ về chất lượng, nhãn mác, bao bì; sản phẩm phổ biến, có số lượng lớn lưu thông trên thị trường.

Đợt thanh tra bắt đầu từ ngày 28.6 đến ngày 28.7.2021 tại tất cả các huyện, thị xã và thành phố trên địa bàn tỉnh, nhằm đánh giá về điều kiện sản xuất, kinh doanh, chất lượng phân bón, thuốc BVTV, hạt giống, cây giống tại các doanh nghiệp sản xuất và các cơ sở kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

Trong quá trình thanh tra, đoàn kết hợp công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức, pháp luật để nâng cao nhận thức và ý thức của các doanh nghiệp sản xuất và các cơ sở kinh doanh.


Bảng giá thủy sản tuần 04/07/2022 – 10/07/2022

Bảng giá một số mặt hàng thủy sản cập nhật mới nhất hôm nay, giá thủy sản tuần 04/07/2022 – 10/07/2022.

TÊN MẶT HÀNGĐƠN GIÁ (VNĐ)ĐƠN VỊ TÍNHNGÀY BÁO GIÁĐỊA PHƯƠNG
Tôm hùm 400 – 600g850.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Tôm càng xanh210.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Tôm he230.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Sò gạo60.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Ốc móng tay50.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Ốc vôi vàng130.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Hàu20.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Tôm bóc nõn180.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Bạch tuộc160.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Mực 1 nắng170.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Mực trứng320.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Mực ống200.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Bề bề hấp180.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cá ngần170.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Ốc sư tử99.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Sò lông33.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Ghẹ279.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Tôm sú319.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Ốc móng rồng260.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Vẹm xanh25.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cá thu phấn khúc220.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cù kỳ đỏ99.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cua thịt 5 – 6 con/kg259.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cua thịt 4 con/kg319.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Bào ngư699.000 – 759.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cá khoai140.000đồng/kg7/7/2022Hà Nội
Cá thát lát còm68.000đồng/kg6/7/2022TP. Hồ Chí Minh
Cá rô tại ao31.000đồng/kg6/7/2022TP. Hồ Chí Minh
Cá rô phi tại ao32.000đồng/kg6/7/2022TP. Hồ Chí Minh
Cá điêu hồng tại ao39.000đồng/kg6/7/2022TP. Hồ Chí Minh
Cá tra thịt trắng42.000 – 45.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Lươn (loại 2)160.000 – 170.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Lươn (loại 1)180.000 – 200.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Ếch nuôi55.000 – 60.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Tôm càng xanh235.000 – 245.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Cá lóc nuôi50.000 – 55.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Cá nàng hai73.000 – 75.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Cá điêu hồng45.000 – 50.000đồng/kg5/7/2022An Giang
Cá rô phi32.000 – 35.000đồng/kg5/7/2022An Giang

Thạnh Hóa (Long An): Mô hình Nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Ít tốn công chăm sóc, tiết kiệm diện tích, lươn nuôi phát triển tốt, ít bệnh, tỷ lệ sống đạt trên 90%,… là những ưu điểm của mô hình Nuôi lươn không bùn.

Những năm qua, do dịch tả heo châu Phi kéo dài, đầu ra không ổn định, nhiều hộ chăn nuôi heo bị thua lỗ nặng phải bỏ trống chuồng trại. Tận dụng chuồng trại sẵn có, nhiều hộ dân ở huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An chuyển sang mô hình Nuôi lươn không bùn, bước đầu thử nghiệm đã mang lại hiệu quả kinh tế, tạo thêm thu nhập cho gia đình. Để định hướng mô hình nuôi thủy sản phát triển bền vững, có sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cuối năm 2019, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã triển khai, thực hiện mô hình Nuôi lươn không bùn tại 3 hộ dân. Tham gia mô hình, nông dân (ND) được hỗ trợ 50% chi phí mua con giống và được cán bộ kỹ thuật tập huấn, hướng dẫn các quy trình nuôi, cách phòng trị bệnh, kỹ thuật chăm sóc lươn. Theo đó, mỗi hộ thả nuôi 3.000 con lươn giống, với mật độ nuôi 200 con/m2.

Mô hình Nuôi lươn không bùn trên địa bàn huyện Thạnh Hóa bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế.

Qua đánh giá mô hình, lươn phát triển tốt, dễ chăm sóc, ít bệnh, tỷ lệ sống đạt trên 90%. Đặc biệt, ND có thể tận dụng hệ thống túi ủ biogas của việc nuôi heo trước đây để xử lý chất thải, giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Sau khi trừ chi phí đầu tư ban đầu, 6.000 con lươn giống của 2 hộ trong mô hình Nuôi lươn không bùn mang về lợi nhuận trên 63 triệu đồng.

Là một trong những hộ nuôi lươn không bùn đạt hiệu quả trên địa bàn huyện, ông Huỳnh Văn Ngời, ngụ xã Thạnh Phú, chia sẻ: “Nhờ áp dụng kỹ thuật chăm sóc tốt nên tỷ lệ hao hụt thấp, lươn lớn nhanh, sau khoảng 10 tháng nuôi thì có thể thu hoạch. Hiện thương lái thu mua lươn với giá 150.000 đồng/kg. Từ 5.000 con giống ban đầu, đến nay, gia đình tôi đã mở rộng diện tích thả nuôi trên 20.000 con lươn thương phẩm”. Song song với việc nuôi lươn thương phẩm, ông Ngời còn tìm tòi, học hỏi và đã ươm thành công lươn giống, từ đó, gia đình ông tự chủ được nguồn con giống; đồng thời, cung cấp lươn giống cho người dân khi có nhu cầu.

Còn tại hộ ông Trương Văn Út, ngụ xã Thuận Nghĩa Hòa, sau nhiều năm nuôi cá nhưng hiệu quả kinh tế không cao nên đã chuyển sang mô hình Nuôi lươn không bùn. Ông Út phấn khởi: “Nuôi lươn không khó, quan trọng nhất là nguồn nước, phải có bể nước xả tràn và thay nước 2 lần/ngày sau khi cho ăn để tránh nước bị ô nhiễm. Đặc biệt, người nuôi phải cho lươn ăn vừa đủ, không thừa cũng không thiếu, chủ yếu sát khuẩn bể nuôi thường xuyên, phòng ngừa bệnh là chính,… Trước đây, khi biết tại địa phương có hộ ươm thành công lươn giống, tôi đã đến tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm và quyết định thả nuôi 6.000 con lươn. Đến nay, lươn đã hơn 7 tháng tuổi, phát triển tốt và đạt khoảng 150g/con, tỷ lệ hao hụt thấp”.

Nuôi lươn không bùn ít tốn công chăm sóc, tiết kiệm diện tích.

Được biết, nguồn thức ăn chủ yếu của lươn là thức ăn công nghiệp, dạng viên hỗn hợp. Sau khi lươn đạt trọng lượng khoảng 100g có thể trộn thêm các loại ốc, cá tạp,… cùng thức ăn hỗn hợp để giảm chi phí. Mặt khác, người nuôi cần bổ sung thêm vitamin C, men tiêu hóa để tăng sức đề kháng cho lươn phát triển tốt. Sau khi thả nuôi từ 10-11 tháng, lươn thương phẩm đạt khoảng 200g/con thì thu hoạch, có thể thu tỉa hoặc thu toàn bộ tùy theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Hóa – Nguyễn Kinh Kha cho biết, thời gian tới, các cơ quan chuyên môn sẽ phối hợp hỗ trợ ND tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi, khoa học – kỹ thuật để nhân rộng các mô hình kinh tế hiệu quả, trong đó có mô hình Nuôi lươn không bùn. Ngoài ra, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện tiếp tục quan tâm, chia sẻ những khó khăn cùng ND để phát triển mô hình Nuôi lươn không bùn được ổn định, bền vững hơn.

Có thể nói, mô hình Nuôi lươn không bùn đã mở ra hướng đi mới cho việc nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Thạnh Hóa. Thời gian tới, mô hình cần được nhân rộng nhằm cải thiện thu nhập cho ND và góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển./.

Hoài An – Trung Hưng (Báo Long An online)


Cà Mau: Lợi ích kép từ tôm – rừng

Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, mô hình tôm – rừng kết hợp là mô hình nuôi tự nhiên sinh thái không sử dụng thuốc và hoá chất, không phát sinh chi phí sản xuất, thu lời cao nhất đến 80 triệu đồng/ha/năm. Ngoài ra, mô hình tôm – rừng còn góp phần tích cực vào việc bảo vệ, phát triển rừng.

Cà Mau có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất cả nước, với hơn 80.000 ha, trong đó có khoảng 27.577 ha nuôi tôm – rừng. Có khoảng 80 cửa sông lớn, nhỏ thông ra biển, hình thành vùng bãi triều rộng lớn; tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi nước cho các vùng ven biển, nhất là vùng ngập mặn bao phủ xung quanh. Đây là điều kiện lý tưởng để phát triển nuôi tôm – rừng.

Theo ngành nông nghiệp, những năm qua, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản đã phối hợp với các ban quản lý bảo vệ rừng, các địa phương, đơn vị và người dân triển khai thực hiện các dự án phát triển liên kết chuỗi giá trị tôm – rừng vùng ven biển tỉnh Cà Mau. Đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã được các tổ chức quốc tế chứng nhận cho hơn 19.000 ha tôm – rừng theo các tiêu chuẩn quốc tế (Naturland, EU Organic, Canada Organic, Selva Shrimp, ASC, BAP,…), sản phẩm được nhiều thị trường ưa chuộng và đánh giá cao.

Sản phẩm tôm – rừng được chứng nhận theo các tiêu chuẩn quốc tế sẽ được các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thu mua với mức giá cao hơn khoảng 5-10% so với sản phẩm truyền thống khác. Ngoài ra, đối với diện tích tôm – rừng được chứng nhận, các doanh nghiệp tham gia liên kết sẽ hỗ trợ chi trả dịch vụ môi trường rừng từ 250.000-500.000 ha/năm và hỗ trợ về con giống có chất lượng cao để thả nuôi. Ngoài sản phẩm chính là tôm sú, các hộ nuôi tôm – rừng còn thu nhập thêm từ cua, cá, sò huyết…

Ông Phan Hoàng Vũ, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Cà Mau, cho biết, canh tác xen ghép tôm trong rừng ngập mặn là cơ chế tốt đảm bảo lợi ích hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ rừng, được đánh giá là giải pháp có hiệu quả nhất giúp khôi phục, bảo vệ và phát triển rừng tại các tỉnh ven biển. Theo tính toán của chuyên gia, với loại hình nuôi tôm trong rừng ngập mặn lượng phát thải giảm 7,3 triệu tấn CO2-e/ha/năm phù hợp với mục tiêu tăng trưởng các-bon xanh và tăng trưởng xanh.

Bên cạnh đó, trong thực hiện mô hình này tiêu hao ít năng lượng do zero đầu vào, chi phí đầu tư rất thấp, sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên hạn chế nguồn thải phát sinh, ngăn ngừa sự phóng thích một lượng lớn CO2 vào khí quyển. Đây là hoạt động xanh hoá sản xuất, bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính.

Mô hình tôm – rừng là hình thức nuôi tôm gắn với bảo vệ rừng và trồng rừng ngặp mặn, quan tâm đến tăng trưởng nguồn các-bon xanh phù hợp xu thế phát triển xanh trên thế giới.

Thực hiện nuôi tôm dưới tán rừng chiếm diện tích 30-40% diện tích mặt nước và phải đảm bảo ít nhất 50-60% tỷ lệ rừng. Điều này góp phần làm tăng tỷ lệ rừng, phát huy khả năng giữ đất chống sạt lở, tăng khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, người nuôi tôm còn được chi trả về dịch vụ rừng và được hưởng lợi từ khai thác rừng; từ đó khuyến khích cộng đồng cùng tham gia bảo vệ rừng. Lợi ích của hệ sinh thái rừng ngập mặn chúng ta đều biết đó là làm tăng khả năng hấp thụ các khí nhà kính, bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu.

“Như vậy, nuôi tôm kết hợp phát triển rừng vừa mang lợi lợi nhuận về kinh tế, vừa đảm bảo các yếu tố về môi trường, hoàn toàn phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững và Tổng cục Thuỷ sản cũng đã đề xuất mở rộng thực hiện hình thức canh tác này góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia”, ông Vũ cho biết thêm.

Đáp ứng yêu cầu đặt ra trước biến đổi khí hậu, cũng như tăng nguồn thu, phát triển kinh tế trong dân, Cà Mau lựa chọn những ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó, nuôi tôm – rừng hợp là một trong những lựa chọn quan trọng trong thời gian tới.

Theo đó, địa phương sẽ kêu gọi, khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến – xuất khẩu thuỷ sản có nhu cầu xây dựng vùng nuôi tôm sinh thái đầu tư vốn, kỹ thuật vào phát triển sản xuất tôm – rừng theo hướng áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế để được chứng nhận. Đổi mới phương thức thực hiện xúc tiến thương mại và phát triển thị trường phù hợp với chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu, theo hướng các hiệp hội và doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp tổ chức thực hiện, Nhà nước giữ vai trò xây dựng cơ chế, chính sách và hỗ trợ các hoạt động.

Cùng với đó, sẽ tăng cường công tác quan trắc môi trường, khuyến cáo kịp thời cho người dân chủ động phòng ngừa, hạn chế thiệt hại trong sản xuất; tuyên truyền vận động người dân thực hiện đúng lịch thời vụ trong sản xuất, tư vấn chọn đối tượng, phương thức nuôi thích nghi tốt với môi trường có độ mặn cao để giảm thiệt hại, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đầu tư hệ thống hạ tầng vùng sản xuất giống, vùng nuôi tập trung thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đối với việc phát triển con tôm nói chung, tôm – rừng kết hợp nói riêng, theo ông Phan Hoàng Vũ, tới đây, địa phương sẽ tăng cường chuyển giao, ứng dụng công nghệ, đẩy mạnh việc nhân rộng mô hình nuôi có hiệu quả trong điều kiện biến đổi khí hậu. Khuyến khích áp dụng các quy trình kỹ thuật nuôi mới, hiệu quả, thân thiện môi trường như Biofloc, các mô hình nuôi ít thay nước, nuôi 2, 3 giai đoạn, nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ, tiết kiệm năng lượng… Tổ chức lại sản xuất theo hướng hình thành các vùng nuôi quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế vùng, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong năm 2021, tổng diện tích nuôi tôm của tỉnh Cà Mau đạt 279.648 ha. Trong đó nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh 7.927 ha (riêng diện tích nuôi tôm siêu thâm canh 3.683 ha); nuôi tôm quảng canh cải tiến 163.170 ha; tôm – lúa khoảng 37.149 ha; tôm – rừng hơn 80.0000 ha (trong đó diện tích nuôi tôm sinh thái đã được các tổ chức chứng nhận đạt hơn 19.000 ha); nuôi quảng canh kết hợp (cua, cá, sò huyết…) khoảng 45.825 ha. Sản lượng tôm nuôi 205.290 tấn, đạt 95,5% so kế hoạch, tăng 2,5% so cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất ngành tôm Cà Mau hiện chiếm 80% trong tổng giá trị sản xuất lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản và chiếm 49% so với tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp.


SẢN PHẨM THUỐC THỦY SẢN TIỆP PHÁT

HEGA

SẢN PHẨM TẠT GIÚP GIẢI ĐỘC GAN, TĂNG CƯỜNG CHỨC NĂNG GAN

Công dụng: - Tăng khả năng bắt mồi, tăng cường chuyển hóa các dinh dưỡng, giảm FCR, giúp tôm hấp thu tốt và phát triển nhanh. - Tăng cường chức năng gan, giải độc gan, hỗ trợ khắc phục tình trạng sưng gan, nhũn gan, teo gan, vàng gan, chai gan,… - Giúp tăng sức đề kháng, chống stress khi san thưa hoặc môi trường thay đổi. [sc name="sg4" ]
not rated
Đọc tiếp
MINER MIX – KHOÁNG MẶN

KHOÁNG MẶN CHUYÊN DÙNG CHO AO NUÔI MẬT ĐỘ CAO, AO CÓ ĐỘ MẶN THẤP

Công dụng: - Cung cấp các khoáng chất cần thiết và muối khoáng tự nhiên, giúp tôm lột xác nhanh, mau cứng vỏ. - Ngăn ngừa hiện tượng cong thân đục cơ, mềm vỏ do thiếu khoáng khi nuôi trong nước không đủ độ mặn hoặc do mưa nhiều. - Nâng cao tỉ lệ sống cho tôm nuôi mật độ cao, giúp tôm tăng trưởng nhanh, rút ngắn thời gian nuôi. [sc name="sg4" ]
not rated
Đọc tiếp
NEW BOGANIC

BỔ GAN, GIẢI ĐỘC GAN, HẠN CHẾ CÁC BỆNH VỀ GAN

สมุนไพรช่วยบำรุงและขับสารพิษจากตับ - ป้องกันโรคตับชนิดต่างๆ Công dụng: - Giải độc các độc tố trong gan, hạn chế teo gan, sưng gan, hoại tử gan. - Bổ sung các chất cần thiết cho gan, tụy. Hỗ trợ và cải tạo chức năng gan. - Hỗ trợ ức chế sự phát triển của buồng trứng, giúp cá tăng trọng nhanh. - Tăng cường khả năng tiêu hóa, hệ miễn dịch nhằm cải thiện hiệu quả chăn nuôi. [sc name="sg5"]
not rated
Đọc tiếp
KILL MAX

DIỆT TRÙNG MỎ NEO, TRÙNG BÁNH XE VÀ CÁC LOẠI KÝ SINH TRÙNG TRÊN CÁ

ยากำจัดและป้องกัน พาราซิท เห็บ หนอนสมอ เห็บระฆัง หมัดปลา Công dụng: - Phòng trị bệnh trùng mỏ neo, rận cá, sán lá đơn chủ trên cá tra, cá basa. [sc name="sg5"]
not rated
Đọc tiếp
BOGANIC

HỖ TRỢ GAN TÔM KHỎE KHẮC PHỤC GAN TÔM YẾU GÂY RA HIỆN TƯỢNG TÔM NỔI ĐẦU, TẤP MÉ VÀ CHẾT ĐỘT NGỘT KẾT HỢP VỚI CHIẾT XUẤT THẢO DƯỢC

Công dụng: - Sản phẩm hỗn hợp dưỡng chất đậm đặc kết hợp với thảo dược quí trong thiên nhiên sản sinh ra hoạt chất giúp tăng cường chức năng gan, tăng sức đề kháng, giúp tôm hạn chế bệnh như: thân đỏ, đầu vàng, teo gan. - Khắc phục gan tôm yếu gây ra hiện tượng tôm nổi đầu, tấp mé và chết đột ngột. - Tái tạo tế bào gan, giúp gan khỏe, tăng tỷ lệ sống cho tôm. [sc name="sg4" ]
not rated
Đọc tiếp
PROTECTOL

KHỬ TRÙNG NGUỒN NƯỚC AO NUÔI DIỆT NHANH CÁC LOẠI VI KHUẨN, VIRUS, NẤM GÂY BỆNH BÍ QUYẾT PHÒNG TRỊ VI NẤM TRONG MÙA MƯA

Công dụng: - Chất khử trùng cực mạnh và hiệu quả; tiêu diệt các loại vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng, nguyên sinh động vật gây bệnh như: bệnh lở loét, xuất huyết, thối đuôi, tuột nhớt, gan thận mủ, bệnh đường ruột, đốm đen, mòn râu, cụt đuôi, phát sáng, mụn ghẻ,… trên tôm, cá, ếch. - Ngăn ngừa dịch bệnh. - Tạo môi trường trong sạch giúp tôm, cá, ếch phát triển tốt. - Sát trùng dụng cụ, bể ương trong nuôi trồng thủy sản. [sc name="sg4" ]
not rated
Đọc tiếp
AQUAVIVE

MEN VI SINH XỬ LÝ ĐÁY AO SẢN PHẨM XỬ LÝ, CẢI TẠO MÔI TRƯỜNG DÙNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

Công dụng: - Duy trì điều kiện ao nuôi thuận lợi cho sự tăng trưởng, tăng năng suất và ổn định. - Phân hủy mùn bã hữu cơ ở đáy ao, làm giảm các loại khí độc như: ammoniac, nitrit và hydro sulfide, vv. - Thúc đẩy thực vật phù du phát triển ổn định. - Tăng cường lượng oxy hòa tan. - Làm giảm stress cho thủy sản. - Hạn chế số lần thay nước ao nuôi. - Hiệu quả ở cả ao nuôi nước ngọt và nước mặn. [sc name="sg4" ]
not rated
Đọc tiếp
NUTRAPRO

MEN VI SINH XỬ LÝ NƯỚC AO SẢN PHẨM XỬ LÝ, CẢI TẠO MÔI TRƯỜNG DÙNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

Công dụng: - Duy trì điều kiện ao nuôi thuận lợi cho sự tăng trưởng, tăng năng suất và ổn định. - Duy trì an toàn sinh học nước ao và cải thiện chất lượng nước. - Hỗ trợ hình thành biofloc trong ao. - Tăng cường lượng oxy hòa tan. - Hạn chế số lần thay nước ao nuôi. - Hiệu quả ở cả ao nuôi nước ngọt và nước mặn. [sc name="sg4" ]
not rated
Đọc tiếp
DETOX

BỔ SUNG KHOÁNG CHẤT CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG NƯỚC

Công dụng: - Bổ sung khoáng chất cần thiết cho ao nuôi ếch. - Làm mềm nước, ổn định pH, cải thiện chất lượng nước ao nuôi. [sc name="sg6"]
not rated
Đọc tiếp