(Thuốc Thủy Sản Tiệp Phát) Tổng hợp tin tức về nông nghiệp – thủy sản trong tuần từ 07/03/2022 – 13/03/2022.
An Giang: Khuyến khích hộ nuôi cá tra nhỏ lẻ chuyển sang loại cá khác
Chi cục Thủy sản An Giang cho biết, tổng diện tích nuôi cá tra thương phẩm trên địa bàn tỉnh hiện có khoảng 1.235ha, sản lượng đạt 400.000-450.000 tấn/năm. Trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp và hộ nuôi liên kết đạt 87% (1.049ha), tỷ lệ hộ không liên kết chiếm 13% (186ha).
Sau thời gian “treo ao” do giá cá tra nguyên liệu xuống thấp, một số hộ dân chưa liên kết đã tái nuôi trở lại khi thấy giá cá tra tăng từ sau Tết Nguyên đán đến nay (trên dưới 30.000 đồng/kg, đối với cá có kích cỡ từ 0,8-1,2kg/con). Tuy nhiên, theo khuyến cáo của cơ quan chuyên môn, đối với các hộ nuôi nhỏ lẻ, chưa liên kết với doanh nghiệp, tiềm ẩn nhiều rủi ro khi giá cá tra lên xuống thất thường.
Trước khi thả nuôi, hộ nuôi nên liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ hoặc chuyển sang một số đối tượng thủy sản nuôi tiềm năng (cá điêu hồng, cá lóc), một số đối tượng giá trị kinh tế (cá chạch lấu, cá lăng, cá ét, cá chốt, nàng hai, cá hô, chép dòn…) để tiêu thụ nội địa, đáp ứng đa dạng nhu cầu thị trường.
HOÀNG XUÂN (Báo An Giang)
Hà Nội: Nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp
Mặc dù đã cấp đủ nước cho 100% diện tích gieo cấy lúa xuân trong khung thời vụ, nhưng tiến độ lấy nước của thành phố Hà Nội vẫn chậm hơn các tỉnh, thành phố trong khu vực. Để bắt kịp tiến độ, chủ động nguồn nước gieo cấy trong những năm tới, Hà Nội đang nghiên cứu giải pháp thích ứng với mực nước các sông hạ thấp không phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ thủy điện, trong đó ưu tiên biện pháp cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi.
Mực nước các sông ngày càng hạ thấp
Tổng kết công tác lấy nước gieo cấy vụ đông xuân 2021-2022, Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT) đánh giá, mặc dù Hà Nội đã lấy đủ nước cho 100% diện tích gieo cấy trong khung thời vụ nhưng tiến độ lấy nước tiếp tục chậm hơn 10 tỉnh, thành phố thuộc khu vực trung du và Đồng bằng Bắc Bộ. “Trong khi nhiều địa phương đã hoàn thành kế hoạch lấy nước, thành phố Hà Nội vẫn còn diện tích thiếu nước, phải lấy đợt 3…”, Cục trưởng Cục Quản lý công trình thủy lợi (Tổng cục Thủy lợi) Nguyễn Hồng Khanh cho biết.
Giải thích về tiến độ lấy nước chậm, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi Hà Nội (Sở NN&PTNT Hà Nội) Đặng Anh Tuấn cho rằng, với 81.441ha, diện tích gieo cấy lúa xuân của Hà Nội chiếm gần 1/5 tổng diện tích toàn khu vực. Hơn nữa, nông dân Thủ đô đã coi vụ đông xuân là vụ sản xuất chính trong nhiều năm nay. Do vậy, các tổ chức thủy lợi không thể lấy nước đưa lên ruộng khi nông dân chưa thu hoạch cây trồng… Đặc biệt, mực nước trên các sông: Hồng, Đà, Đuống những năm gần đây liên tục hạ thấp khiến hàng loạt trạm bơm cố định gồm: Ấp Bắc, Sơn Đà, Trung Hà, Phù Sa…; các cống lấy nước như: Cẩm Đình, Liên Mạc… không thể vận hành. Đơn cử như sông Đà, đoạn qua huyện Ba Vì, mực nước năm nay so với năm 2021 hạ thấp đột biến, giảm 1-1,5m. “Nếu không chủ động cải tạo, nâng cấp, lắp trạm bơm dã chiến, điều tiết nguồn nước từ các hồ thủy lợi, ngành Nông nghiệp Hà Nội khó hoàn thành nhiệm vụ lấy nước phục vụ gieo cấy vụ xuân…”, ông Đặng Anh Tuấn khẳng định.
Về vấn đề này, Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Thủy lợi sông Tích Nguyễn Chí Hải thông tin: Năm 2021, Trạm bơm Trung Hà vẫn đủ điều kiện vận hành. Nhưng năm 2022, công trình này chỉ vận hành 1-2/9 tổ máy ở đợt lấy nước thứ hai. Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của thành phố trong điều tiết nguồn nước hồ Suối Hai, gần 3.500ha thuộc vùng phụ trách của Trạm bơm Trung Hà đã có đủ nước gieo cấy lúa xuân trong khung thời vụ…
Cải tạo, nâng cấp nhiều công trình lấy nước
Nhằm bảo đảm yêu cầu phục vụ sản xuất và dân sinh, vừa tiết kiệm nước để phát điện trong điều kiện nguồn nước ngày càng khó khăn, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết, Bộ đã báo cáo và đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương liên quan tiếp tục quản lý chặt chẽ tình trạng khai thác cát trái phép lòng sông thuộc lưu vực sông Hồng – sông Thái Bình để hạn chế hạ thấp, biến đổi lòng dẫn, gây khó khăn trong công tác vận hành công trình lấy nước… Bộ cũng đề nghị thành phố Hà Nội chỉ đạo đơn vị liên quan đánh giá khả năng lấy nước của các hệ thống thủy lợi trong vụ đông xuân 2021-2022; cải tạo, nâng cấp một số công trình để bảo đảm đủ năng lực theo kịp tiến độ lấy nước của các địa phương khác…
Thực hiện chỉ đạo trên, ngày 14-2 vừa qua, UBND thành phố Hà Nội đã giao Sở NN&PTNT chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu giải pháp, kế hoạch nâng cấp công trình, bảo đảm lấy nước không phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ thủy điện; thống nhất với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính về nguồn vốn, thủ tục thực hiện…
Trao đổi với phóng viên Báo Hànộimới, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Văn Quyến thông tin: Sở đã phối hợp với các đơn vị, địa phương kiểm tra, đánh giá hiện trạng công trình lấy nước, tổng hợp diễn biến mực nước trên các sông: Hồng, Đà, Đuống trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó, Sở xây dựng dự thảo báo cáo giải pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất vụ đông xuân không phụ thuộc vào dòng chảy bổ sung từ các hồ thủy điện.
Đồng thời, Sở NN&PTNT đề xuất UBND thành phố chỉ đạo chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp các trạm bơm: Sơn Đà (nằm trên địa bàn huyện Ba Vì), Ấp Bắc (huyện Đông Anh), Vàng – Dương Xá (huyện Gia Lâm), cụm công trình đầu mối Liên Mạc (quận Bắc Từ Liêm). Sở cũng đề xuất UBND thành phố cho bổ sung dự án xây dựng các trạm bơm dã chiến Trung Hà và Liên Mạc vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của thành phố; đồng thời giao Sở NN&PTNT làm chủ đầu tư lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư và triển khai công tác chuẩn bị đầu tư ngay trong năm 2022, thực hiện đầu tư và hoàn thành công trình trong năm 2023. Cùng với đó, đề xuất cho phép thực hiện các dự án cải tạo, sửa chữa bằng nguồn chi thường xuyên ngân sách thành phố đối với các dự án: Cải tạo, sửa chữa bể hút Trạm bơm Xuân Phú (huyện Phúc Thọ); cải tạo, sửa chữa Trạm bơm dã chiến Bá Giang (huyện Đan Phượng)…
Ngoài giải pháp công trình, Sở NN&PTNT cũng đề nghị thành phố chỉ đạo các địa phương chuyển đổi diện tích khó khăn về nguồn nước sang nuôi, trồng các loại cây, con sử dụng ít nước có giá trị kinh tế tương đương hoặc cao hơn; khuyến khích nông dân áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước… Tiếp cận thông tin nêu trên, lãnh đạo và nông dân các quận, huyện, thị xã mong muốn thành phố có bước đột phá trong công tác đầu tư cho lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
KIM NHUỆ (Báo Hànộimới)
Bảng giá thủy sản tuần 07/03/2022 – 13/03/2022
Bảng giá một số mặt hàng thủy sản cập nhật mới nhất hôm nay, giá thủy sản tuần 07/03/2022 – 13/03/2022.
TÊN MẶT HÀNG | ĐƠN GIÁ (VNĐ) | ĐƠN VỊ TÍNH | NGÀY BÁO GIÁ | ĐỊA PHƯƠNG |
Cá tra thịt trắng | 40.000 – 45.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Lươn loại 2 | 170.000 – 180.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Lươn loại 1 | 190.000 – 200.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Ếch nuôi | 55.000 – 60.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Tôm càng xanh | 230.000 – 240.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Cá lóc nuôi | 45.000 – 50.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Cá nàng hai | 50.000 – 52.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Cá điêu hồng | 45.000 – 50.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Cá rô phi | 32.000 – 35.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | An Giang |
Tôm sú loại 60 con/kg | 130.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm sú loại 50 con/kg | 145.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm sú loại 40 con/kg | 180.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm sú loại 30 con/kg | 230.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm sú loại 20 con/kg | 260.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm thẻ 100 con/kg | 95.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm thẻ 60 con/kg | 122.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm thẻ 50 con/kg | 132.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm thẻ 40 con/kg | 146.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm thẻ 30 con/kg | 165.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Tôm thẻ 25 con/kg | 180.000 | đồng/kg | 10/3/2022 | Trà Vinh |
Cá lóc nuôi tại chợ | 33.500 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá lóc nuôi tại ao loại 500gr-1kg | 29.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá lóc nuôi tại ao loại >1kg | 31.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Tôm sú 40 con (ao) | 185.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Sóc Trăng |
Tôm sú 30 con (ao) | 220.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Sóc Trăng |
Tôm sú 20 con tại ao | 265.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Sóc Trăng |
Cá tra thịt | 29.500 – 30.000 | đồng/con | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá tra giống loại 30-35 con/kg | 41.000 – 42.000 | đồng/con | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá lóc thịt (>600gr) | 27.500 – 28.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Trà Vinh |
Ếch thịt | 43.000 – 44.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Ếch giống loại 100-150 con/kg | 400 | đồng/con | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá điêu hồng (>600gr) | 30.000 – 31.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá điêu hồng giống loại 30-40 con/kg | 26.000 – 28.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá rô phi (500-600gr) | 31.000 – 31.500 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá rô phi giống loại 30-40 con/kg | 36.000 – 37.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Cá rô thịt loại 3-5 con/kg | 27.000 – 27.500 | đồng/kg | 9/3/2022 | Cần Thơ |
Cá thát lát loại 2-3 con/kg | 50.000 – 51.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Hậu Giang |
Cá thát lát giống loại 200 con/kg | 1.400 | đồng/con | 9/3/2022 | Hậu Giang |
Cá trê vàng | 44.000 – 45.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Đồng Tháp |
Ốc móng tay | 20.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Cần Thơ |
Cá ngân | 60.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Cần Thơ |
Cá nhòng | 60.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Cần Thơ |
Cá sòng | 45.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Cần Thơ |
Sò huyết | 130.000 | đồng/kg | 9/3/2022 | Cần Thơ |
Tôm càng xanh loại 15-20 con/kg | 150.000 | đồng/kg | 7/3/2022 | Sóc Trăng |
Tôm càng xanh loại 6-15 con/kg | 180.000 | đồng/kg | 7/3/2022 | Sóc Trăng |
Cà Mau: Cá bớp Hòn Chuối được giá
Đảo Hòn Chuối thuộc khóm 1, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, nằm cách cửa biển Sông Đốc khoảng 17 hải lý về hướng Tây. Trên đảo hiện có hơn 68 hộ với trên 200 nhân khẩu sinh sống, trong đó có 37 hộ đang nuôi cá bớp lồng bè với 196 bè, khoảng trên 30 ngàn con cá giống.

Anh Hồng Nhật Trường, cư dân nuôi cá bớp, cho biết: “Tiền đóng bè, mua cá giống không nhiều, nhưng nặng là phần thức ăn cho cá ăn. Để đảm bảo mỗi tháng cá tăng trọng đều đặn thêm khoảng 2 kg/con, mỗi ngày tôi chi hơn 1 triệu đồng tiền mua cá mồi làm thức ăn cho cá bớp”.
Thời tiết thuận lợi nên sau 7 tháng nuôi, cá của gia đình anh Trường đạt trọng lượng từ 5-7 kg/con.


Anh Trường và một số hộ dân ở đảo mới thu hoạch, bán cá được giá 155 ngàn đồng/kg. Trừ chi phí con giống và thức ăn, người nuôi cá thu lời khoảng 70-80 ngàn đồng/kg.

Nếu giữ được giá và nguồn thức ăn dồi dào thì cư dân Hòn Chuối sẽ tiếp tục đầu tư mở rộng mô hình nuôi cá bớp lồng bè.
Tuy nhiên, do đảo nhỏ nên mỗi năm cư dân Hòn Chuối phải di chuyển bè quanh đảo để tránh sóng, tránh gió, gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém về tài chính.
Lê Khoa (Cà Mau Online)
Bến Tre: Đưa công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp
Những năm gần đây, nông dân trong tỉnh quan tâm ứng dụng công nghệ vào sản xuất, nhằm tăng năng suất, chất lượng và lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp (NN). Một số mô hình mang lại hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và thời tiết tại địa phương.
Năng suất, chất lượng cao
Năm 2020, ông Hồ Tao Đàn, ngụ xã Tân Phong, huyện Thạnh Phú, quyết định nghỉ chăn nuôi bò để chuyển diện tích trồng cỏ sang trồng dưa lưới ứng dụng công nghệ cao (CNC). Khi đó, gia đình ông đã bỏ ra gần 150 triệu đồng để xây dựng 2 nhà màng, với diện tích 800m2, hệ thống bồn chứa nước, máy bơm, ống tưới nhỏ giọt, giá thể… Toàn bộ quy trình sản xuất được Trung tâm NN ứng dụng CNC tỉnh chuyển giao, hướng dẫn. Đến nay, gia đình ông Đàn sản xuất 6 vụ dưa lưới, hiện đã thu hồi vốn đầu tư ban đầu và có lãi.

Ông Đàn cho biết: Trước đây sản xuất NN theo kiểu cũ năng suất, chất lượng thấp nên thường không có lợi nhuận cao. Từ khi sản xuất theo mô hình ứng dụng CNC gần như tự động hoàn toàn, rất ít tốn công, sản phẩm làm ra chất lượng cao nên giá ổn định. Mô hình này tốn chi phí đầu tư vừa phải nên người dân có thể áp dụng để phát triển NN theo hướng bền vững.
Gia đình ông Đàn bán sản phẩm làm ra qua kênh online. Vụ dưa lưới trước Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, gia đình ông thu hoạch gần 2 tấn quả thì có đến 95% bán qua mạng xã hội. Những địa điểm gần trong xã, trong huyện, ông Đàn kiêm luôn nhiệm vụ giao hàng. Những khách hàng xa thì gửi qua hệ thống bưu điện, xe khách, xe buýt… Ông Đàn cho biết: “Mấy chục năm sản xuất NN, tôi chủ yếu bán qua thương lái nên hầu như trong đầu không có suy nghĩ sẽ bán trực tiếp cho người mua. Đợt vừa qua khi thu hoạch ngay dịch Covid-19, gia đình chuyển sang bán online. Không ngờ toàn bộ sản phẩm bán hết trong mấy ngày. Sắp tới, gia đình sẽ chuyển qua bán hàng online để được giá cao hơn, không bị thương lái ép giá như trước đây”.
Giám đốc Trung tâm NN ứng dụng CNC tỉnh Nguyễn Quốc Trung cho biết: Trong thời gian qua, trung tâm đã chuyển giao nhiều mô hình NN ứng dụng CNC như: sản xuất dưa lưới, rau thủy canh, trồng nấm, nuôi cá chạch lấu, ếch… Trong đó, các mô hình được chú trọng đầu tư phù hợp với điều kiện diện tích đất nhỏ, manh mún tại địa phương để phát triển kinh tế hộ gia đình.
Tỉnh đang tập trung khuyến khích phát triển các mô hình NN ứng dụng CNC. Hiện tại, toàn tỉnh có gần 2.500ha diện tích NN ứng dụng CNC như: nuôi tôm thẻ chân trắng, nuôi cá, sản xuất rau thủy canh, dưa lưới, rau an toàn… Phó giám đốc Sở NN và Phát triển nông thôn Huỳnh Quang Đức cho biết: Hiện tại, trên địa bàn tỉnh đang phát triển các mô hình sản xuất NN ứng dụng CNC để hướng đến sản xuất sạch. Ngành NN đang tổ chức sản xuất, chuyển giao trong nuôi tôm CNC, kỹ thuật tưới nhỏ giọt, nhà màng trồng trọt… Đồng thời, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong cải thiện giống bằng phương pháp vi ghép, cấy mô và các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo quy trình hữu cơ. Trong đó, tỉnh đang tập trung phát triển sản xuất trong điều kiện thích ứng biến đổi khí hậu, đất đai diện tích nhỏ của địa phương và nhu cầu thị trường để phát triển bền vững”.
Tạo đột phá từ chính sách
Ngày 29-1-2021, Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU về phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021 – 2025 và tầm nhìn đến 2030, trong đó có nuôi tôm CNC. Mục tiêu đến năm 2025, tỉnh sẽ phát triển 4 ngàn ha nuôi tôm biển ứng dụng CNC và đến năm 2030 là 5 ngàn ha. Qua năm đầu tiên thực hiện nghị quyết tại 3 huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú, tổng diện tích nuôi tôm ứng dụng CNC đạt 50%, với khoảng 2 ngàn ha.

Giám đốc Sở NN và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh cho biết: Để đạt được mục tiêu đề ra, tỉnh rà soát quy hoạch và xây dựng các vùng nuôi theo hướng CNC. Đồng thời, tỉnh tập trung phát triển nhanh, mạnh đối với tôm sú, tôm chân trắng có thị trường tốt; nhân rộng và phát triển mô hình nuôi tôm theo CNC, nuôi an toàn sinh học, nuôi 2 giai đoạn để nâng cao năng suất, sản lượng và phát triển bền vững. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 2 ngàn ha nuôi tôm biển ứng dụng CNC, năng suất bình quân 12 tấn/ha/vụ, cao gấp 4 lần so với nuôi thâm canh trước đây, lợi nhuận trung bình từ 700 – 800 triệu đồng/ha/vụ nuôi.
Tuy vậy, để phát triển nuôi tôm CNC thì nhu cầu về vốn rất lớn. Trung bình 1ha nếu đầu tư nuôi tôm CNC thì khoảng 1 tỷ đồng. Vì vậy, trong thời gian qua, chỉ một số nông dân khá giả mới có khả năng đầu tư. Còn lại, những hộ dân ít vốn, diện tích sản xuất nhỏ lẻ chấp nhận rủi ro để sản xuất theo kiểu cũ. Gia đình ông Đặng Văn Bảy (ngụ xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú) làm giàu nhờ nuôi tôm CNC, đem về thu nhập hơn chục tỷ đồng mỗi năm. Ông Bảy cho biết: Mô hình nuôi tôm CNC phải đầu tư khá lớn. Trung bình khoảng 1 tỷ đồng/ha nhưng hiệu quả mang lại rất lớn do không dịch bệnh, nước xử lý kỹ nên tôm mau lớn. Ông áp dụng nuôi 2 giai đoạn, 1ha chỉ cho nuôi khoảng 1.500m2 mặt nước. Diện tích còn lại là ao ươm và ao xử lý nước. Tôm nuôi với mật độ cao nên cần rất nhiều nước sạch để thay đổi liên tục. Khi đó, năng suất khoảng 9 tấn, cao hơn 3 lần so với thả nuôi theo bình thường. Cái khó là nông dân cần rất nhiều vốn để đầu tư.
Để giải quyết những vướng mắc và cụ thể hóa Nghị quyết Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch phát triển nuôi tôm CNC với tổng kinh phí đầu tư hơn 10.705 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước hơn 1.200 tỷ đồng, còn lại là vốn của dân, vốn doanh nghiệp đầu tư. Dự kiến đến năm 2025, sản lượng tôm biển ứng dụng CNC đạt 144 ngàn tấn, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 41,4%, giá trị sản xuất ngành tôm đạt 1 tỷ USD.
Trong thời gian tới, tỉnh sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp từ cơ chế, chính sách đến đầu tư hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ; đẩy mạnh kêu gọi đầu tư, nhất là đầu tư nuôi tôm CNC và đầu tư nhà máy chế biến tôm…
Cụ thể, tỉnh phát triển các mô hình hợp tác, liên kết các hộ nuôi, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ lại thành tổ hợp tác, hợp tác xã để tạo ra các vùng sản xuất nguyên liệu lớn. Tập trung làm đầu mối liên kết với doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, giảm bớt các khâu trung gian.
Chuyển đổi một số vùng sản xuất NN kém hiệu quả thành vùng nuôi thủy sản chuyên canh, phù hợp với quy hoạch, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ. Ưu tiên thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống kênh cấp thoát nước đối với các vùng nuôi tôm tập trung, vùng nuôi tôm ứng dụng CNC tại 3 huyện Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú.
Thành Châu (Báo Đồng Khởi)
Đồng Tháp: Tập trung xây dựng, phát triển các chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ cho ngành hàng cá tra
Tiếp tục nâng cao giá trị ngành hàng cá tra đến năm 2025, tỉnh Đồng Tháp định hướng vận hành và sản xuất cá tra theo chuỗi khép kín từ nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ. Đồng thời áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất và chế biến nhằm giảm giá thành và nâng cao giá trị gia tăng…
Thực trạng ngành hàng cá tra
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), thời gian qua, để phát triển ngành hàng cá tra, tỉnh tập trung nhiều vào khâu phát triển nguồn giống. Trong đó, tạo ra được đàn cá tra di truyền, giúp nâng cao về tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ phi lê và tăng khả năng kháng bệnh. Trong khâu nuôi, sử dụng thức ăn công nghiệp thay nguồn thức ăn tự chế để giảm hệ số tiêu tốn thức ăn, hạn chế ô nhiễm môi trường, dịch bệnh. Mặt khác, sử dụng chế phẩm sinh học làm ổn định chất lượng nước và nền đáy trong ao nuôi, nâng cao sức khỏe và sức đề kháng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn.
Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng ứng dụng những nghiên cứu về các kỹ thuật trong việc cho ăn gián đoạn để tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và giảm chi phí thức ăn; sử dụng vắc-xin trong phòng, chống dịch bệnh. Đặc biệt là phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sâu như collagen, genlatin, bơ cá, dầu cá và các sản phẩm khác…

Nhờ triển khai nhiều giải pháp trọng tâm, thời gian qua, diện tích và sản lượng nuôi cá tra thương phẩm trên địa bàn tỉnh luôn phát triển ổn định theo hướng tăng dần theo thời gian. Năm 2015, diện tích nuôi cá tra của tỉnh là 1.858ha, đến năm 2021, diện tích thả nuôi cá tra thương phẩm là 2.100ha với 42% diện tích nuôi áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và tương đương. Sản lượng cá tra đạt trên 486 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 763,8 triệu USD và xếp thứ 4 cả nước. Có 22 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra sang 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, thị trường lớn khó tính như Mỹ, Châu Âu…
Hiện nay, diện tích nuôi cá tra thương phẩm đang áp dụng và được chứng nhận các tiêu chuẩn (VietGAP, GlobalGAP, ASC, BAP…) là 669,66ha, chiếm 41,8% diện tích nuôi cá tra toàn tỉnh. Bên cạnh đó, toàn tỉnh cũng có 3 cơ sở sản xuất giống cá tra áp dụng và được chứng nhận theo tiêu chuẩn BAP với diện tích 11,1ha.
Về công tác quản lý điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất kinh doanh thủy sản, đến nay, có 70 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo Thông tư số 38/2018/TT-Bộ NN&PTNT, có 177 cơ sở nuôi cá tra thương phẩm và 86 ghe vận chuyển cá tra nguyên liệu từ vùng nuôi về nhà máy chế biến thực hiện ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn theo Thông tư số 17/2018/TT-Bộ NN&PTNT. Ngoài ra, tỉnh cũng xây dựng Đề án sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao tại tỉnh Đồng Tháp với diện tích 400ha nhằm đáp ứng đủ nhu cầu con giống chất lượng cao, có thương hiệu, truy xuất nguồn gốc góp phần phát triển chuỗi cá tra theo hướng bền vững…
Nâng cao giá trị ngành hàng cá tra
Dù đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng ngành hàng cá tra của tỉnh đang đối mặt với không ít những thách thức trong quá trình phát triển như chất lượng con giống suy giảm, nguồn cung chưa đáp ứng thiếu ổn định; tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi còn lỏng lẻo; giá cá biến động liên tục, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ vốn sản xuất còn gặp nhiều khó khăn; ứng dụng khoa học công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng chưa được quan tâm đúng mức…
Bên cạnh đó, sức ép về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, các rào cản thương mại, các yêu cầu kỹ thuật của thị trường ở các nước nhập khẩu ngày càng khắc khe hơn, hệ thống phân phối tiêu thụ, logistic còn rất nhiều hạn chế…
Theo Sở NN&PNT, trong kế hoạch tái cơ cấu ngành hàng cá tra đến năm 2025, tỉnh phấn đấu phát triển diện tích nuôi cá tra là 2.450ha, với sản lượng 555.000 tấn, tương đương giá trị sản xuất (theo giá so sánh năm 2010) đạt 9.046 tỷ đồng, chiếm 17,2% cơ cấu giá trị ngành nông, lâm, thủy sản (tăng 0,38% so với năm 2020). Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 980 triệu USD. Đồng thời tập trung nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm và sản xuất bền vững, phấn đấu đến năm 2025, có 100% cơ sở nuôi cá tra được số hóa mã nhận diện theo quy định; 100% cơ sở nuôi cá tra thương phẩm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hoặc ký cam kết sản xuất thực phẩm an toàn theo quy định; 50% diện tích nuôi cá tra thương phẩm áp dụng và được chứng nhận tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (GAP) và 90% diện tích hộ cá thể nuôi cá tra tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ. Đến năm 2025, có 60% các cơ sở sinh sản cá tra bột sử dụng đàn cá cải thiện di truyền, cung cấp trên 75% con giống chất lượng cao phục vụ nuôi thương phẩm; có 60% diện tích vùng nuôi hệ thống xử lý nước thải, bùn thải theo quy định; 100% nguồn nước cấp trên dòng sông chính được quan trắc thường xuyên theo quy định…
Để đạt được những mục tiêu đề ra, tại buổi tọa đàm phát triển chuỗi giá trị ngành hàng cá tra do Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp tổ chức vừa qua, ông Dương Nghĩa Quốc – Chủ tịch Hiệp hội cá tra Việt Nam cho rằng, thời gian tới, Đồng Tháp cần chú trọng việc phát triển con giống cho cá tra. Trong kế hoạch cần cụ thể hóa chương trình cải thiện về chất lượng con giống cụ thể của từng vùng, về cơ sở hạ tầng, chính sách thu hút doanh nghiệp tham gia chương trình phát triển con giống. Cùng với đó, tỉnh cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi giá trị ngành hàng cá tra, áp dụng khoa học công nghệ phát triển, sản xuất sản phẩm đạt chất lượng cao. Với định hướng phát triển thị trường trong nước, Đồng Tháp cần kiến nghị Trung ương xây dựng hệ thống kênh phân phối sản phẩm cá tra và có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia phân phối.
Ông Huỳnh Văn Hiền – Giảng viên Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ đánh giá, thời gian tới, tỉnh cần xây dựng kế hoạch phát triển chuỗi giá trị ngành hàng cá tra gắn với từng thị trường tiêu thụ, nhằm nâng cao giá trị thương hiệu, nắm được nhu cầu của từng thị trường và truy xuất được nguồn gốc.
Theo ông Nguyễn Phước Thiện – Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Đồng Tháp cho biết, mục tiêu đến năm 2025, ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp thực hiện tái cơ cấu ngành hàng cá tra với định hướng tập trung phát triển bền vững, hiện đại dựa trên việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sản phẩm giá trị gia tăng. Cùng với đó, triển khai nhiều giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, ngành hàng cá tra cũng hướng đến việc tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, có giá trị cao, đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và an toàn thực phẩm của thị trường trong nước và xuất khẩu…
TRANG HUỲNH (Báo Đồng Tháp Online)
Bến Tre: Phát huy giá trị mô hình tôm – lúa
Hiện tỉnh đang phát triển 5 đối tượng nuôi có giá trị kinh tế bao gồm tôm sú, tôm chân trắng, cá tra, nghêu và tôm càng xanh. Trong đó, tôm càng xanh được nuôi bằng nhiều hình thức như nuôi trong mương vườn dừa, nuôi bán thâm canh trong ao đất và nuôi xen canh với trồng lúa. Hiện tại phong trào nuôi tôm – lúa cũng đang phát triển ổn định với diện tích khoảng 6.600ha và có khả năng phát triển khoảng 15.000ha, sản lượng 1.060 tấn. Đặc biệt, việc áp dụng quy trình nuôi tôm càng xanh toàn đực xen trong ruộng lúa, đồng thời luân canh tôm sú sinh thái thích ứng với tình trạng xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu là điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
“Con tôm ôm cây lúa”
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh chia sẻ, việc áp dụng quy trình nuôi tôm càng xanh toàn đực xen trong ruộng lúa, đồng thời luân canh tôm sú sinh thái thích ứng với tình trạng xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu là hướng đi phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường một cách thiết thực và bền vững. Mô hình canh tác tôm – lúa trong thời gian qua đã đạt được hiệu quả rõ nét, thiết thực và ổn định, giúp người dân nâng cao thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích, cân bằng môi trường sinh thái, cải tạo môi trường, làm giảm dịch bệnh. Đặc biệt, được sự quan tâm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông qua Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, tỉnh đã chủ trì thực hiện nhiều dự án tôm càng xanh xen, luân canh trong ruộng lúa giai đoạn 2019 – 2021, bước đầu đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Về lúa, năng suất khoảng 4,8 tấn/ha/vụ; về tôm, năng suất bình quân 500kg/ha/vụ (kích cỡ 20 con/kg, 6 tháng nuôi, tỷ lệ sống 60%). Ngoài ra, còn có Dự án WB9 trong năm 2021 với 60ha đã mang lại những hiệu quả thiết thực.

Mặt khác, trong năm 2022 thực hiện Dự án đầu tư sản xuất tôm – lúa có trách nhiệm tại tỉnh do Công ty THHH Xã hội chuỗi tôm rừng Minh Phú làm chủ dự án. Quy mô 30ha tại ấp An Bình, xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú. Dự án này hứa hẹn sẽ mang lại hiệu quả trên nhiều mặt kinh tế – xã hội, môi trường. Góp phần vào sự thành công của Đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đa dạng hóa đối tượng nuôi phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn đang ngày càng gay gắt.
Tại hội thảo mô hình tôm – lúa khu vực đồng bằng sông Cửu Long, được tổ chức tại tỉnh Bạc Liêu hồi đầu tháng 2-2022, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho biết: Đây không phải là mô hình mới, thậm chí từ những năm 2001 đã thực hiện. Nhưng tại sao nó mất luôn và tới những năm 2020 mới phục hồi dần lại? Bộ trưởng kêu gọi mọi người cùng suy nghĩ tại sao một mô hình là kết tinh từ giá trị tri thức, từ tâm huyết của các nhà khoa học, nhưng lại chậm phát triển?
Bộ trưởng Lê Minh Hoan gợi mở, cần tổ chức cho những người nông dân ngồi lại với nhau, cùng ngẫm nghĩ, thảo luận để chia sẻ những giá trị của mô hình này. “Nông dân sáng ra đồng, tối về ngủ, thành ra những thông tin, tri thức, tâm huyết đó không đến được với họ, thậm chí đại bộ phận nông dân họ xa lạ với những thuật ngữ, ý tưởng của chúng ta”. Bộ trưởng nhận xét và nói rằng: “Thành ra họ vẫn chọn làm theo cách truyền thống, tức xảy ra chuyện xung đột người này, người kia dẫn đến dần tan rã”. Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, cần xây dựng một nơi sinh hoạt cộng đồng để tại đây, doanh nghiệp, chuyên gia và bà con nông dân cùng ngồi lại để trao đổi bằng suy nghĩ, bằng tâm thức của người nông dân, thì mới có dịch chuyển từ họ, tức những mô hình hay mới lan tỏa vào cộng đồng, phát huy được giá trị.

Vì sao mô hình chưa thể nhân rộng?
Theo Giám đốc Trung tâm Khuyến nông, khuyến ngư Châu Quang Trị, thời gian qua, tỉnh tập trung nuôi ở huyện Thạnh Phú, là địa bàn có vị trí địa lý gần sông Cổ Chiên và sông Hàm Luông nên thuận lợi cho việc cung cấp nước cho mô hình lúa – tôm càng xanh. Chi phí đầu tư rất thấp, có thể tiếp cận được giống tôm càng xanh tại địa phương. Do diện tích canh tác không nhiều, trung bình dưới 1ha và mô hình lúa – tôm càng xanh cũng không đòi hỏi nhiều lao động nên sử dụng lao động gia đình là chủ yếu, ngoại trừ khi thu hoạch trong thời gian ngắn là cần nhiều người. Người dân đã có kinh nghiệm sản xuất mô hình lúa – tôm càng xanh. Sản xuất lúa – tôm càng xanh được đánh giá là mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững, ít rủi ro so với các mô hình nuôi trồng thủy sản khác và được xem như mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh các kết quả đạt được, mô hình canh tác lúa – tôm càng xanh luôn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Thời tiết thay đổi bất thường đã ảnh hưởng đến năng suất của lúa và tôm. Suy thoái môi trường nước mặt ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm càng xanh. Năng suất mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa còn thấp. Diện tích đất trung bình của 1 hộ thấp, nhưng người dân thiếu kết nối trong sản xuất để tiêu thụ sản phẩm được tốt hơn. Về thị trường đầu ra, tôm càng xanh bị cạnh tranh với tôm sú, thẻ chân trắng. Trình độ kỹ thuật của nông dân còn thấp, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Năng suất tôm còn thấp nên lợi nhuận chưa cao. Chưa có định hướng xây dựng thương hiệu tôm và lúa an toàn để nâng cao giá trị sản phẩm. Tỉnh chưa chủ động được về con giống.

Các giải pháp để cải thiện mô hình
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đoàn Văn Đảnh, cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ giống tái sản xuất khi bị rủi ro thiên tai, dịch bệnh. Có chính sách ưu đãi như giảm miễn thuế, cho tư nhân vay lãi suất thấp. Tổ chức cung cấp con giống, nuôi thương phẩm, dịch vụ thức ăn, thuốc thú y phòng trị bệnh tại vùng nuôi của huyện. Ngành nông nghiệp nên xem lúa thơm – tôm sạch là một chuỗi giá trị ngành hàng để có sự đầu tư đúng mức về cơ sở vật chất, hạ tầng cũng như cơ chế, chính sách một cách đầy đủ và đồng bộ.
Nên chọn địa điểm nuôi tôm càng xanh ruộng lúa có độ mặn từ 2 – 5%o, ruộng nuôi có chất đáy bùn cát và cát bùn là phù hợp. Chọn giống đảm bảo chất lượng, kích thước giống thả nuôi đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, mật độ tôm giống thả nuôi trung bình từ 3 – 5 con/m2. Nên thả giống từ tháng 4 – 6 và trồng lúa từ tháng 7 – 8 dương lịch. Nên cho tôm ăn bằng cách rải đều và kết hợp kiểm tra bằng sàng ăn để tính lượng thức ăn cần thiết cho tôm, giúp hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước. Các viện, trường chuyển giao công nghệ nghiên cứu giống lúa chịu mặn; sinh sản tôm càng xanh toàn đực để đủ đáp ứng nhu cầu tại địa phương. Thực hiện các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về bệnh tôm càng xanh, về mật độ nuôi, để nâng cao hiệu quả nghề nuôi tôm càng xanh ruộng lúa. Các giải pháp về vốn, tăng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu khoa học, khuyến ngư, nâng cao năng lực của cán bộ trong ngành. Hỗ trợ vốn xây dựng các mô hình trình diễn ứng dụng công nghệ mới để triển khai nhân rộng. Xây dựng thương hiệu tôm – lúa sạch, tạo sản phẩm đặc trưng của vùng nhằm tiêu thụ hết nguyên liệu cho người nuôi, giảm bớt rủi ro khi thị trường có biến động xấu.
Thu Huyền (Báo Đồng Khởi)
Cần Thơ: Phòng tránh các loại dịch bệnh trên cá tra
Cá tra là thủy sản nuôi chủ lực tại tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL để chế biến xuất khẩu. Hiện nay, người nuôi cá tra có thuận lợi khi gần đây giá cả cá tra thương phẩm phục hồi và tăng mạnh trở lại. Tuy nhiên, ngành cá tra cũng đối mặt với nguy cơ “phát triển nóng” về diện tích nuôi dẫn đến thiếu hụt nguồn con giống chất lượng và khả năng bùng phát các loại dịch bệnh trên cá tra nếu không có giải pháp chủ động phòng tránh.
Nguy cơ thiệt hại từ dịch bệnh
Người nuôi cá tra cũng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và thiệt hại do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiên tai và các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ngày càng tăng. Đáng chú ý, năm 2020 tổng diện tích cá tra được ghi nhận bị thiệt hại do bệnh là 1.426ha tại 37 xã, phường thuộc 13 quận, huyện của 4 tỉnh, thành phố. Các bệnh thường gặp gồm: bệnh gan thận mủ, bệnh do ký sinh trùng, bệnh xuất huyết… Năm 2021, dịch bệnh trên cá tra ghi nhận tiếp tục xảy ra tại 32 xã của 13 huyện thuộc 2 tỉnh, với diện tích 501ha. Đó là tại 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Đầu năm 2022 đến nay, các tỉnh như Vĩnh Long, An Giang và Đồng Tháp đã ghi nhận có hơn 14ha cá tra nuôi bị các bệnh gan thận mủ, xuất huyết và bệnh do ký sinh trùng.

Theo Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), dự báo trong thời gian tới diện tích cá tra nuôi bị mắc bệnh có thể sẽ tiếp tục giảm và xuất hiện trong phạm vi hẹp. Tuy nhiên, hiện nay do giá cá tra cao và thị trường đang có nhu cầu lớn…nên một số cơ sở nuôi có thể mở rộng sản xuất mà không quan tâm đúng mức đến phòng, chống dịch bệnh. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu, thời tiết tiếp tục có diễn biến phức tạp. Đặc biệt, các hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng kéo dài, mưa lũ, bão lụt, xâm nhập mặn… làm môi trường nuôi bị thay đổi và tác động xấu đến sức khỏe cá nuôi. Từ đó, tạo thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển và gây bệnh cho cá tra. Trong khi công tác phòng, chống dịch bệnh trên cá tra và thủy sản nói chung tại nhiều địa phương còn gặp khó khăn và hạn chế. Đáng chú ý là việc tổng hợp, thống kê, giám sát, phát hiện và báo cáo tại các địa phương còn yếu và chưa đầy đủ. Mặc dù đã có các quy định, hướng dẫn rất cụ thể nhưng do thiếu kinh phí, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và năng lực cán bộ được giao nhiệm vụ nên việc ghi chép thông tin từ tuyến cơ sở không đảm bảo yêu cầu về chất lượng và tốc độ chuyển tải thông tin. Các doanh nghiệp và cơ sở nuôi cá tra cũng chưa thực hiện tốt khai báo bệnh cho cơ quan chuyên môn. Do vậy, gây khó khăn cho việc tổng hợp, phân tích, đánh giá và nhận định cảnh báo về tình hình dịch bệnh.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, cơ sở nuôi cá tra chưa chủ động triển khai các chương trình giám sát dịch bệnh tại cơ sở, đa số là không có kế hoạch giám sát. Hầu hết các cơ sở nuôi khi có thủy sản bị bệnh thường xả thải nước ao bệnh ra ngoài môi trường, dẫn đến các loại mầm bệnh dễ phát tán rộng trong vùng nuôi và gây bệnh ở diện rộng. Trong khi đó, chất lượng nguồn con giống bán trên thị trường cũng chưa thật sự được đảm bảo, nhất là con giống sạch bệnh.
Cần giải pháp đồng bộ
Để chủ động phòng, tránh các loại dịch bệnh trên cá tra, đòi hỏi cần có sự phối hợp và vào cuộc quyết liệt của các bên liên quan. Đặc biệt, các hộ dân và cơ sở nuôi cá tra cần xây dựng kế hoạch giám sát dịch bệnh chủ động, gắn với xây dựng cơ sở, chuỗi sản xuất an toàn dịch bệnh để xuất khẩu. Thực hiện nghiêm túc các quy định về việc khai báo dịch bệnh, chỉ sử dụng con giống đã qua kiểm dịch và có chất lượng tốt. Sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm. Quan tâm xử lý đối với nước cấp, nước thải để tiêu diệt mầm bệnh, giảm thiểu nguy cơ gây bệnh hoặc phát tán mần bệnh cho cá tra.
Ngành chức năng các địa phương cần làm tốt công tác thông tin, cảnh báo về dịch bệnh và chủ động xây dựng, triển khai chương trình giám sát dịch bệnh trên cá tra theo các chương trình, kế hoạch và quyết định của Trung ương. Đồng thời, xây dựng kế hoạch và triển khai chương trình giám sát dịch bệnh và quan trắc môi trường một cách đồng bộ để phục vụ tốt cho nuôi trồng thủy sản. Mặt khác, tăng cường kiểm tra, kiểm dịch cá giống nhằm giảm thiểu con giống mang mầm bệnh. Theo ông Nguyễn Văn Buội, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bến Tre, dịch bệnh khi xảy ra dù tỷ lệ nhỏ nhưng ảnh hưởng lớn đến sản xuất do cá tra thường thả nuôi mật độ dày. Từ lúc thả con giống đến thu hoạch cá thương phẩm, dù tỷ lệ hao hụt chỉ khoảng 4-5% cũng sẽ góp phần làm đội giá thành nuôi cá tra lên rất cao. Do vậy, cần có sự phối hợp tốt giữa các địa phương quản lý chặt chẽ chất lượng nguồn con giống, đảm bảo tất cả con giống khi cung ứng ra thị trường và đến tay người nuôi phải được kiểm dịch và đạt chất lượng theo yêu cầu.
Ông Nguyễn Văn Long, Phó Cục trưởng Cục Thú y, Bộ NN&PTNT, cho rằng: “Để phòng, chống dịch bệnh cá tra cần chủ động xây dựng kế hoạch. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 434/QĐ-TTg ngày 24-3-2021 về phê duyệt Kế hoạch Quốc gia phòng, chống một số dịch bệnh nguy hiểm trên thủy sản nuôi giai đoạn 2021-2030, trong đó có con cá tra. Căn cứ theo đó, các địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể, phù hợp thực tế tại địa phương mình”. Theo ông Long, các tỉnh cần khẩn trương báo cáo, tham mưu UBND cấp tỉnh phê duyệt các kế hoạch của địa phương liên quan đến phòng, chống dịch bệnh thủy sản, trong đó có dịch trên cá tra, nhấn mạnh tập trung vào giám sát, cảnh báo, xử lý các ổ dịch và kiểm soát tình hình sử dụng thuốc kháng sinh và các loại hóa chất trong phòng trị bệnh cho cá. Đồng thời, các địa phương cần tổ chức theo dõi, giám sát và lấy mẫu để xác định xem mức độ lưu hành các mầm bệnh, nhất là những bệnh nguy hiểm có ảnh hưởng đến phát triển nuôi cá tra như bệnh gan thận mủ và bệnh xuất huyết. Chính phủ cũng đã có quyết định số 414/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tăng cường năng lực hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành ngành thú y các cấp giai đoạn 2021-2030, các địa phương cần khẩn trương báo cáo, tham mưu cho lãnh đạo cấp tỉnh phê duyệt kế hoạch tại địa phương và bố trí các nguồn lực để tăng cường năng lực thú y các cấp để đảm bảo nguồn lực tổ chức triển khai các hoạt động phòng, chống bệnh trên cá tra và thủy sản nói chung. Tổ chức giám sát, đôn đốc, kiểm tra thường xuyên và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG (Báo điện tử Cần Thơ)