(Thuốc Thủy Sản Tiệp Phát) Tổng hợp tin tức về nông nghiệp – thủy sản trong tuần từ 13/12 – 19/12/2021.
ĐBSCL: Giá cá tra tăng trở lại
Nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để chế biến xuất khẩu và chuẩn bị nguồn hàng phục vụ thị trường cuối năm dịp Tết Dương lịch 2022, Tết Nguyên đán 2022. Điều này góp phần giúp giá cá tra khởi sắc.
Theo Báo Cần Thơ, giá cá tra tại những tỉnh có nuôi cá tra nguyên liệu phục vụ xuất khẩu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) như An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Cần Thơ…, đạt 23.000-24.000 đồng/kg, trong khi trước đây chỉ ở mức 21.000-22.000 đồng/kg.
Nguyên nhân là nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua để chế biến xuất khẩu và chuẩn bị nguồn hàng phục vụ thị trường cuối năm dịp Tết Dương lịch 2022, Tết Nguyên đán 2022.
Bên cạnh đó, nguồn cung cá tra nguyên liệu tại nhiều địa phương giảm do người dân giảm nuôi góp phần tạo điều kiện cho giá nhích lên. Theo hộ dân nuôi cá tra, với giá bán hiện nay, nếu nuôi cá đạt sản lượng tốt và cá ít bị hao hụt, người nuôi cá tra không còn bị thua lỗ nữa.
Tuy nhiên, do giá thức ăn thủy sản và nhiều chi phí đầu vào phục vụ nuôi cá tra đã tăng mạnh thời gian qua nên đa phần người nuôi cá tra chỉ có lời chút ít hoặc huề vốn.
Dự báo giá cá tra nguyên liệu có khả năng còn nhích lên trong thời gian tới do nhu cầu tiêu thụ tăng và nguồn cung có phần hạn chế.
Trong giai đoạn giãn cách xã hội, giá cá tra ở các tỉnh ĐBSCL giảm mạnh, người dân lỗ nặng và ít thả nuôi. Vụ nuôi trồng thủy sản dự báo trong quý I/2022 có thể xảy ra tình trạng thiếu nguyên liệu cho nhà máy chế biến.
Bảng giá thủy sản tuần 13/12 – 19/12/2021
Bảng giá một số mặt hàng thủy sản cập nhật mới nhất hôm nay, giá thủy sản tuần 13/12 – 19/12/2021
TÊN MẶT HÀNG | ĐƠN GIÁ (VNĐ) | ĐƠN VỊ TÍNH | NGÀY BÁO GIÁ | ĐỊA PHƯƠNG |
Cá tra thịt trắng | 35.000 – 40.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Lươn loại 2 | 170.000 – 180.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Lươn loại 1 | 180.000 – 200.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Ếch nuôi | 55.000 – 60.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Tôm càng xanh | 230.000 – 240.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Cá lóc nuôi | 48.000 – 52.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Cá nàng hai | 52.000 – 56.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Cá điêu hồng | 48.000 – 50.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Cá rô phi | 32.000 – 35.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | An Giang |
Cá lóc nuôi | 30.000 | đồng/kg | 17/12/2021 | Đồng Tháp |
Tôm thẻ 50 con/kg tại ao | 190.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Quảng Ninh |
Tôm thẻ 80 con/kg tại ao | 140.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Quảng Ninh |
Tôm thẻ 100 con/kg tại ao | 125.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Quảng Ninh |
Tôm sú 40 con tại ao | 165.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Bến Tre |
Tôm sú 30 con tại ao | 205.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Bến Tre |
Tôm sú loại 20 con tại ao | 245.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Bến Tre |
Tôm thẻ loại 100 con/kg tại ao | 108.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Bến Tre |
Tôm thẻ loại 80 con/kg tại ao | 120.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Bến Tre |
Tôm thẻ loại 50 con/kg tại ao | 144.000 | đồng/kg | 16/12/2021 | Bến Tre |
Tôm càng xanh giống | 150 | đồng/con | 15/12/2021 | Bạc Liêu |
Tôm sú Post 12 | 145 | đồng/con | 15/12/2021 | Công ty H.L. |
Tôm thẻ Post 12 | 112 | đồng/con | 15/12/2021 | Công ty H.L. |
Tôm thẻ Post 12 | 135 | đồng/con | 15/12/2021 | Tập đoàn V.U. |
Tôm thẻ Post 12 | 154 | đồng/con | 15/12/2021 | Công ty C.P. |
Cá thát lát còm | 56.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá lóc nuôi tại ao | 31.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá điêu hồng tại ao | 37.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Ốc bươu | 38.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá rô đầu nhím tại ao | 32.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá tra mỡ vàng | 17.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá tra giống loại 30-35 con/kg | 32.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá tra tại ao | 25.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Đồng Tháp |
Cá tra bột | 11 | đồng/con | 14/12/2021 | Long An |
Cá mè hoa tại ao | 15.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Thanh Hóa |
Lươn loại 1 (4-5 con/kg) tại trại | 120.000 | đồng/kg | 14/12/2021 | Sóc Trăng |
Cá sát sọc tại ao | 90.000 | đồng/con | 14/12/2021 | Tuyên Quang |
An Giang: Phát triển kinh tế từ nuôi lươn giống
Hiện nay, nhu cầu của thị trường lươn thương phẩm khá lớn, nhưng nguồn lươn giống của các hộ nuôi đa phần còn phụ thuộc vào tự nhiên, nên việc cung cấp con giống không đảm bảo. Mô hình nuôi lươn giống đang được nhiều nông dân xã Thạnh Mỹ Tây (huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) hướng đến, góp phần tăng thu nhập, phát triển kinh tế địa phương.
Anh Nguyễn Hải Vương (ngụ xã Thạnh Mỹ Tây) nhận thấy nguồn lươn giống ngày càng khan hiếm, nhất là khó mua được lươn giống chất lượng về nuôi. Vì vậy, sau 4 năm nuôi lươn thương phẩm thành công, năm 2019 anh Vương nuôi thử nghiệm 3 bồn lươn giống. Trong thời gian thử nghiệm, anh Vương cố gắng học theo những người nuôi trước, tìm hiểu thêm thông tin từ sách báo để ứng dụng vào mô hình của gia đình. Sau đợt thu hoạch lươn giống đầu tiên thành công, anh Vương mạnh dạn đầu tư mở rộng mô hình.
Hiện nay, gia đình anh Vương đang có 30 bồn nuôi (mỗi bồn ngang 2,5m, dài 10m) với khoảng 4.500 con lươn bố mẹ và khoảng 45.000 con lươn giống cung ứng cho các hộ nuôi lươn trong và ngoài tỉnh. Anh Vương cho biết, nuôi lươn giống không khó nhưng cũng không dễ. Để thành công, đầu tiên phải chọn lươn bố mẹ khoảng 8-10 tháng tuổi, đạt trọng lượng từ 150-200gr/con, khỏe mạnh, không bị xây xát, có thể chọn lươn nuôi hay lươn tự nhiên để nuôi vỗ cho sinh sản.
Thời gian tốt nhất để lươn sinh sản từ khoảng tháng 12 đến tháng 5 (âm lịch). Khi sinh sản, lươn làm tổ bằng cách đào hang và nhả bọt rất nhiều lên miệng hang để đẻ trứng. Trung bình mỗi lần sinh sản, lươn đẻ từ 300-700 trứng, tỷ lệ sống hơn 90%. Sau khi lươn đẻ xong có thể vớt trứng vào thau để ấp. Trong quá trình ấp trứng cần thường xuyên để hệ thống sục khí ô-xy và kiểm tra nhiệt độ, độ pH, lượng nước…
“Trung bình 15-20 ngày, tôi thu hoạch trứng lươn một lần. Sau đó, đem trứng ấp từ 5-7 ngày sẽ nở thành lươn bột. Lươn bột nuôi dưỡng khoảng 15-20 ngày sẽ đạt kích cỡ 10.000 con/kg và sau 2 tháng nuôi kích cỡ lươn giống đạt khoảng 1.000 con/kg. Từ 2019 đến nay, trung bình mỗi năm tôi bán vài trăm nghìn con lươn giống cho hộ nuôi khắp nơi trong và ngoài địa phương. Năm 2020, chỉ tính riêng việc bán lươn giống đạt khoảng 150.000 con, doanh thu hơn 200 triệu đồng, sau khi trừ chi phí tôi còn lợi nhuận khoảng 100 triệu đồng” – anh Vương chia sẻ.
Giống như anh Vương, anh Trần Văn Nét (ngụ xã Thạnh Mỹ Tây) đang nuôi 15 bồn lươn với hơn 2.200 con lươn bố mẹ và 20.000 con lươn giống. Trung bình mỗi bồn, anh thả nuôi khoảng 150 con lươn bố mẹ. Dù chỉ mới nuôi lươn giống trong 2 năm, nhưng mô hình của anh Nét mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Mỗi năm, anh nuôi 5 đợt lươn giống, thu lời khoảng 50% doanh thu mỗi đợt bán.
Anh Nét chia sẻ: “Mô hình nuôi lươn giống trong bồn phù hợp với điều kiện thực tế địa phương. Bên cạnh đó, do không đòi hỏi diện tích lớn, có thể tận dụng đất xung quanh nhà để nuôi. Vốn đầu tư cho mô hình cũng không quá cao. Tuy nhiên, so với nuôi lươn thịt, nuôi lươn giống đòi hỏi kỹ thuật cao hơn”.
Theo anh Nét, để việc nuôi lươn giống mang lại hiệu quả, đạt chất lượng, cần phải chọn lươn bố mẹ tốt và vệ sinh bồn thật kỹ trước khi thả lươn vào nuôi. Trong quá trình nuôi phải thường xuyên theo dõi lươn phát triển để cho ăn, chăm sóc phù hợp. Đặc biệt, cần cho lươn bố mẹ ăn đầy đủ dưỡng chất thì trứng mới phát triển tốt. Bên cạnh đó, bệnh thường gặp ở lươn chủ yếu là đường tiêu hóa. Vì vậy, để đường tiêu hóa của lươn khỏe mạnh thì phải chia đều các cữ ăn, lươn mới có sức đề kháng mạnh. Trong quá trình nuôi, cần chú ý thay nước sau khi cho ăn để làm sạch nguồn nước, lươn ít bị bệnh. Mỗi ngày thay nước 2 lần, khi thay nước phải thực hiện nhẹ nhàng, tránh tháo hết nước làm cho lươn bị “sốc” sẽ hao hụt lươn giống.
Thời gian qua do áp dụng đúng kỹ thuật nên lươn giống do anh Nét nuôi có tỷ lệ hao hụt rất thấp. Cũng đang nuôi 14 bồn lươn với khoảng 3.000 con lươn bố mẹ, anh Trần Văn Thanh Loan (ngụ xã Thạnh Mỹ Tây) cho biết, nuôi lươn giống đòi hỏi công chăm sóc và theo dõi nguồn nước, nhằm duy trì nhiệt độ và chất lượng nguồn nước. Thức ăn cho lươn con chủ yếu là trùn chỉ cũng rất dễ kiếm tại địa phương. Nuôi lươn giống có thu nhập cao hơn so với lươn thương phẩm, do lươn thương phẩm phải nuôi từ 12-14 tháng mới bán được. Còn đối với nuôi lươn giống, từ lươn bột mới ấp chỉ cần nuôi thêm khoảng 2 tháng là đã có thu nhập. Nhờ đó mà người nuôi có thu nhập thường xuyên. Và chỉ cần sau một năm bán lươn giống là có thể lấy lại vốn đầu tư bồn và trang thiết bị nuôi.
Chủ tịch Hội Nông dân xã Thạnh Mỹ Tây Đặng Vũ Linh cho biết, hiện nay xã có 25 hộ nuôi lươn sinh sản với diện tích 0,9ha, tập trung 2 ấp Long Châu, Thạnh Hòa và một phần ấp Thạnh Phú, cung cấp lươn giống cho các hộ nuôi trong và ngoài địa phương. Thực hiện nghị quyết của Đảng ủy và kế hoạch của UBND xã về việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, Hội nông dân xã đã hướng dẫn thành lập Hợp tác xã thương mại dịch vụ nuôi lươn VietGAP Thạnh Mỹ Tây với 19 thành viên. Đồng thời, xã cũng đã quy hoạch vùng tập trung những hộ nuôi lươn sinh sản và lươn thương phẩm ứng dụng công nghệ cao để có hướng phát triển tập trung lâu dài. Thời gian tới, Hội Nông dân xã sẽ phối hợp tổ chức các lớp hướng dẫn kỹ thuật để tiếp tục phát triển mô hình nuôi lươn trên địa bàn.
TRỌNG TÍN (Báo An Giang)
Cần Thơ: Mô hình nuôi cua đinh sinh sản có hiệu quả kinh tế cao
Phát triển nuôi cua đinh và cho sinh sản tăng đàn thành công, gia đình ông Nguyễn Văn Thanh ở khu vực Thạnh Thắng, phường Phú Thứ, quận Cái Răng, TP Cần Thơ, đã có nguồn thu nhập khá tốt nhờ loại vật nuôi này. Thịt cua đinh có giá trị dinh dưỡng rất cao và có thể chế biến thành rất nhiều các món ăn ngon nên con cua đinh có giá bán khá cao và được thị trường ưa chuộng.
Thời gian qua, do thịt cua đinh luôn có giá bán ở mức cao nên nông dân tại nhiều địa phương ở vùng ÐBSCL đã chú ý phát triển nuôi con cua đinh đáp ứng nhu cầu thị trường và có điều kiện nâng cao thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, việc nuôi và cho con cua đinh sinh sản và tăng đàn không phải ai cũng làm được.

Với bản tính cần cù, không ngại vất vả và quyết tâm tìm hiểu, học tập kinh nghiệm từ các nơi, ông Nguyễn Văn Thanh đã cho cua đinh sinh sản thành công được 4 năm nay. Ông Thanh cho biết: “Lúc mới bắt đầu nuôi, tôi chỉ xây 2 bể xi măng nhỏ để mua con giống về nuôi cua đinh thịt. Do chưa rành về kỹ thuật và đảm bảo các điều kiện về nguồn nước, thức ăn nên số con giống này chết hết. Dù vậy, tôi không nản chí mà quyết tâm tìm hiểu kỹ thuật nuôi và mua con giống để nuôi tái lại và thành công. Ðến năm 2017, tôi đã cho cua đinh sinh sản thành công để tự chủ nguồn con giống phục vụ nuôi cua đinh thương phẩm và dần dần có dư con giống bán ra thị trường”. Hiện mỗi năm ông Thanh có thể cung cấp ra thị trường khoảng 300-400 con cua đinh thịt và khoảng 600 con cua đinh giống (cua đinh con). Với giá bán cua đinh thương phẩm ở mức 400.000-500.000 đồng/kg và cua đinh giống ở mức 350.000 đồng/con (khoảng 1 tuần tuổi), gia đình ông có được nguồn thu nhập khá cao từ loại vật nuôi này. Nguồn thức ăn được ông Thanh sử dụng để nuôi cua đinh là các loại cá tươi được xay nhuyễn, trong đó chủ yếu ông mua cá rô phi nên chi phí không quá cao, với chỉ khoảng 12.000 đồng/kg.
Cua đinh là một loại bò sát thuộc họ rùa sống chủ yếu tại các vùng sông nước ở Nam Bộ và có hình dáng khá giống con ba ba nên còn gọi là ba ba Nam Bộ. Về bề ngoài, cua đinh và ba ba có sự khác biệt cơ bản trên mai và phần đầu. Ðặc biệt, trên vành mai của cua đinh có các đầu nhọn nhô ra như đầu đinh. Còn phần đầu của cua đinh có bông vàng, bề mặt của mai cũng xù xì hơn không được nhẵn mịn như ba ba và khối lượng cũng lớn hơn ba ba. Thông thường cua đinh nặng khoảng 5-15kg và có thể đạt đến trên 30kg. Trứng của cua đinh cũng lớn hơn rất nhiều so với trứng ba ba. Cua đinh khó nuôi và khó cho sinh sản so với con ba ba, có thời gian từ lúc ấp trứng đến khi nở kéo dài đến khoảng 90 ngày, còn ba ba chỉ mất khoảng 45 ngày. Tuy nhiên, nhờ có khối lượng lớn và giá bán cao nên khi nuôi thành công, cua đinh có thể cho lợi nhuận cao hơn gấp nhiều lần so với nuôi ba ba, nhất là khi người nuôi tự sản xuất được con giống.
Ðể cho cua đinh đẻ trứng và ấp nở con thành công, ông Thanh học hỏi kinh nghiệm tại rất nhiều nơi. Qua đó, biết cách phân biệt con đực và con cái, cách bố trí, xây dựng chuồng trại cho cua đinh sinh sản. Theo ông Thanh, cần thiết kế nơi có đất cát và cao ráo để cua đinh đẻ trứng, sau đó lấy trứng đem ấp. Cua đinh thường đẻ trứng một cách tự nhiên từ tháng 12 đến tháng 7 (âm lịch) hằng năm và mỗi con có thể đẻ từ 9-17 trứng/lần.
Hiện gia đình ông Thanh có khoảng 25 bể xi măng phục vụ nuôi cua đinh, với 200 con cua đinh bố mẹ và khoảng 300-400 con cua đinh có thể làm con giống hậu bị. Dự kiến, tới đây ông sẽ xây thêm chuồng trại để mở rộng quy mô nuôi.
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG (Báo điện tử Cần Thơ)
Hậu Giang: Vào vụ thu hoạch cá ruộng
Thời điểm này, nhiều cánh đồng trong tỉnh bà con nông dân đã tổ chức thu hoạch cá ruộng để chuẩn bị cho vụ lúa Đông xuân. Năm nay nước thấp, cá chậm lớn, cùng với đó là giá bán không cao đã làm giảm nguồn thu nhập của bà con.
Năng suất, giá bán đều giảm
Gắn bó với nghề nuôi cá ruộng gần 10 năm nay, nhưng chưa có vụ cá nào ông Nguyễn Văn Năm, ở thị trấn Cây Dương, huyện Phụng Hiệp, lại thu nhập thấp như năm nay. Với 4ha thả nuôi mọi năm đều cho năng suất hơn 3 tấn cá nhưng năm nay thu hoạch hết chỉ khoảng 2 tấn. Cùng với đó, giá bán giảm hơn mọi năm gần 2.000 đồng/kg, trừ hết chi phí vụ cá ruộng năm nay gia đình ông chỉ thu nhập 15 triệu đồng, thấp hơn gần 10 triệu đồng so với năm rồi. Ông Năm cho biết: “Năm nay ảnh hưởng bởi dịch bệnh nên giá cá ruộng cũng giảm hơn mọi năm. Như năm rồi cá chép còn được 15.000 đồng/kg, cá mè 10.000 đồng/kg, nhưng năm nay cá chép chỉ có 13.000 đồng/kg, cá mè còn 9.000 đồng/kg, khi vào thu hoạch rộ nhiều khả năng giá sẽ còn giảm mạnh. Bởi các thương lái cho hay năm nay ảnh hưởng bởi dịch bệnh nên cá ruộng chủ yếu chỉ tiêu thụ nội địa, khó tiêu thụ ở các địa phương khác”.

Bên cạnh giá bán giảm thì năng suất cá năm nay cũng thấp nhất trong khoảng 3 năm trở lại đây. Nguyên nhân là do tác động của dịch bệnh, bà con đã chủ động giảm bớt từ 20-30% lượng cá giống khi thả nuôi. Bên cạnh đó nước về trễ, cá lên ruộng muộn hơn gần 1 tháng so với năm rồi. Thời gian thả nuôi ngắn nên trọng lượng cá trung bình vụ này chỉ từ 500-800 gram/con, năng suất bình quân chỉ đạt 600kg/ha. Anh Nông Huỳnh Đức, ở thị trấn Cây Dương, cho biết: “Gia đình nuôi khoảng 1ha cá ruộng, mọi năm trung bình thả khoảng 30kg cá giống nhưng năm nay chỉ thả 20kg nên từ đó sản lượng cá năm nay cũng thấp hơn mọi năm”.
Năm nay huyện Phụng Hiệp thả nuôi được 3.250ha cá ruộng, vượt 50ha so với kế hoạch đề ra. Hiện nay, bà con ở các địa phương trong huyện đã thu hoạch được gần 100ha. Ông Trần Văn Tuấn, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phụng Hiệp, cho biết: Giá cá năm nay thấp phụ thuộc vào sự biến động của thị trường. Còn năng suất cá giảm là do người dân chủ động giảm lượng cá giống thả nuôi và con nước về muộn. Thông thường vụ cá ruộng hàng năm có thời gian thả nuôi khoảng 4 tháng. Nhưng năm nay nước về muộn nên thời gian nuôi bị rút ngắn lại chỉ khoảng 3 tháng, bà con phải ương cá trong mùng lưới gần một tháng mới cho lên đồng nên trọng lượng bình quân của con cá ruộng năm nay giảm.
Dễ nuôi, chi phí thấp
Mặc dù thu nhập của người dân nuôi cá ruộng bị giảm, nhưng nhiều nông dân trong tỉnh vẫn chuộng sản xuất mô hình 2 lúa 1 cá thay vì làm 3 vụ lúa trong năm. Anh Nông Huỳnh Đức cho biết thêm: “Thu nhập từ con cá ruộng mấy năm nay đều giảm hơn so với trước đây, nhưng bà con vẫn chuộng hơn sản xuất lúa Thu đông. Bởi nuôi cá ruộng mùa nước nổi có chi phí đầu tư thấp, lợi nhuận tương đương đến cao hơn sản xuất lúa nhưng ít chịu tác động của thiên nhiên. Thu hoạch cá ruộng xong là gieo sạ vụ Đông xuân nên tiền bán cá ruộng cũng hỗ trợ phần nào cho việc thuê cơ giới trục đất, vệ sinh đồng ruộng và mua lúa giống cho vụ Đông xuân”.
Theo ngành nông nghiệp tỉnh, nhờ ít tốn công chăm sóc, chi phí đầu tư thấp và lợi nhuận đạt khá mà trong vài năm gần đây nuôi cá ruộng trở thành mô hình được nhiều hộ dân lựa chọn để thay thế sản xuất lúa vụ 3 kém hiệu quả. Chi cục Chăn nuôi Thú y và Thủy sản tỉnh cho biết đã xây dựng nhiều mô hình nuôi cá ruộng theo hướng nâng cao giá trị tại các địa phương có điều kiện phát triển hình thức này, trong đó tập trung các đối tượng nuôi như cá rô đồng, cá lóc đồng, trê vàng…
Ngành nông nghiệp tỉnh Hậu Giang cho biết, ngoài hiệu quả kinh tế, việc nuôi cá trên ruộng còn góp phần làm tăng độ phì nhiêu của đất. Các loại cá còn ăn rong rêu, vệ sinh đồng ruộng, hạn chế được các loại cỏ dại trong mùa nước nổi, giảm chi phí đầu tư cho vụ lúa tiếp theo. Trung bình, người nông dân nuôi cá trên ruộng có thể tiết kiệm được trên 1 triệu đồng/ha tiền làm đất hay diệt các loại cỏ dại trong mùa nước.
Ông Trần Văn Xại, ở xã Hiệp Hưng, huyện Phụng Hiệp, cho biết: “Canh tác gần 10 công lúa nhưng năm nào gia đình cũng thả cá ruộng. Bởi sau 2 vụ lúa Đông xuân và Hè thu cần một thời gian để đất nghỉ và diệt các mầm bệnh trong quá trình sản xuất lúa nhằm giúp cho vụ Đông xuân tiếp theo đạt hiệu quả”.
Ông Trần Văn Tuấn, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phụng Hiệp, cho biết thêm: Nuôi cá ruộng mùa nước nổi ngoài hiệu quả về mặt kinh tế còn góp phần cải tạo đất. Bởi trong quá trình nuôi cá tìm mồi sẽ làm cho đất tơi xốp hơn và thải lại trong đất một lượng phân nhất định. Đến khi sản xuất vụ Đông xuân bà con sẽ hạn chế một lượng phân khá lớn, từ đó cũng giảm được chi phí trong quá trình sản xuất. Chính từ những lợi ích đó mà hàng năm huyện Phụng Hiệp đều duy trì diện tích nuôi cá ruộng khá lớn. Năng suất và giá bán thấp nên thu nhập của cá ruộng ở Phụng Hiệp năm nay chỉ đạt lợi nhuận khoảng 5 triệu đồng/ha, thấp hơn 2 triệu đồng/ha so với năm rồi. Tuy nhiên, xét tổng thể, đây vẫn là mô hình sản xuất mang lại lợi ích được nhiều nông hộ áp dụng vì phù hợp với tự nhiên.
T.TRÚC – D.KHÁNH (Hậu Giang Online)
Mỹ Xuyên (Sóc Trăng): Quyết tâm xây dựng thành công huyện nông thôn mới nâng cao
Mỹ Xuyên là địa phương đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được công nhận huyện nông thôn mới, đây là thành quả của sự đoàn kết, nỗ lực, nhất trí, đồng lòng của toàn Đảng bộ và nhân dân Mỹ Xuyên. Tuy nhiên, vẫn chưa hài lòng với kết quả đạt được, các cấp ủy, chính quyền Mỹ Xuyên đã và đang tiếp tục phấn đấu trong nhiệm kỳ 2020 – 2025 sẽ xây dựng thành công huyện nông thôn mới nâng cao, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Để xây dựng thành công huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2020 – 2025, theo đồng chí Đặng Văn Phương – Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Mỹ Xuyên, địa phương sẽ thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm trong bối cảnh “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” theo từng cấp độ dịch áp dụng trên địa bàn huyện. Trước mắt, huyện tiếp tục hoàn thành việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới cấp xã, cấp huyện đảm bảo thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và đảm bảo tiêu chí môi trường nông thôn sáng – xanh – sạch – đẹp. Điều chỉnh, bổ sung đề án xây dựng các xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, tiến tới hoàn thành huyện nông thôn mới nâng cao vào năm 2025. Huyện tập trung phát triển sản xuất gắn với cơ cấu lại nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững cho người dân.

Cũng theo đồng chí Đặng Văn Phương, địa phương sẽ tập trung các giải pháp đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa có giá trị kinh tế cao phù hợp với Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp (gồm: cây lúa, cây màu, con tôm và con bò), Đề án Lúa thơm – tôm sạch, Dự án Phát triển lúa đặc sản, Dự án Phát triển chăn nuôi bò là thế mạnh, chủ lực… gắn với chuỗi giá trị, góp phần tăng thu nhập và giảm nghèo bền vững tại địa phương. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, thành lập mới các hợp tác xã, tổ hợp tác thuộc lĩnh vực nông nghiệp và đảm bảo 100% hợp tác xã tham gia các chuỗi liên kết cung ứng vật tư, sản xuất, tiêu thụ nông sản với doanh nghiệp theo phương châm “hợp tác cùng có lợi”. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ sản xuất hữu cơ vào sản xuất nông nghiệp; sản xuất các sản phẩm sạch theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP… Đồng thời, triển khai hiệu quả Đề án Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm”. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với nhu cầu thực tế sử dụng lao động của doanh nghiệp và địa phương. Chú trọng đào tạo theo các đề án, dự án, mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả thông qua các doanh nghiệp có hợp đồng liên kết với nông dân. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nghề gắn với sử dụng lao động tại doanh nghiệp ở địa bàn nông thôn.
Song song đó, địa phương cũng sẽ đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thương mại – dịch vụ, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng trong phát triển kinh tế – xã hội. Chú trọng thực hiện tốt công tác quy hoạch, thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, thương mại – dịch vụ trên địa bàn; tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Phát huy hiệu quả dự án nhà ở thương mại – dịch vụ; tiếp tục kêu gọi đầu tư cụm công nghiệp vào địa phương. Thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Khai thác tối đa lợi thế tuyến đường trục phát triển tôm – lúa tỉnh, tuyến đường trục phát triển kinh tế Đông – Tây… với hệ thống đường thủy, hình thành liên kết vùng, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.
Bên cạnh đó, huyện tập trung tuyên truyền, vận động người dân tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, nhất là đối với các tiêu chí Nhà nước và nhân dân cùng làm. Xây dựng, nhân rộng các mô hình kiểu mẫu để tạo chuyển biến rõ nét diện mạo nông thôn; nâng chất huyện nông thôn mới, xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao vào năm 2025.
Ngoài ra, Mỹ Xuyên sẽ quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa – xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và vệ sinh môi trường nông thôn. Phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và con người Việt Nam, xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh. Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các ngày lễ, kỷ niệm của đất nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Nâng cao chất lượng cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và nâng cao chất lượng gia đình văn hóa, ấp văn hóa, cơ quan văn hóa. Quản lý, bảo tồn và phát huy tốt giá trị các di tích văn hóa lịch sử; các giá trị văn hóa truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc trong huyện, góp phần quảng bá, thu hút đầu tư du lịch.
Cùng với đó, huyện tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, sắp xếp mạng lưới trường lớp, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia theo chỉ tiêu nghị quyết. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, duy trì và nâng chất trạm y tế đạt chuẩn. Quan tâm thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công cách mạng và chính sách bảo trợ xã hội gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Tăng cường công tác kiểm tra về bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững và hài hòa lợi ích của cộng đồng; xử lý triệt để, dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và cộng đồng dân cư trong việc chủ động ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu và chủ động phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai.
Nâng cao chất lượng tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội; cải thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân. Bồi dưỡng kiến thức cho 100% cán bộ, công chức xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới. Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội các cấp tham gia xây dựng chương trình; thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, phong trào “5 không 3 sạch”…
Tin rằng với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, đặc biệt là sự nỗ lực quyết tâm cao, Đảng bộ và nhân dân Mỹ Xuyên sẽ sớm xây dựng thành công huyện nông thôn mới nâng cao theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã đề ra.
H.LAN (Báo Sóc Trăng)
Bến Tre: Cần chính sách toàn diện thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển bền vững
Ngày 3-11-2021, Ban Kinh tế và Ngân sách HĐND tỉnh đã tiến hành giám sát Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) về kết quả thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp ngành NN&PTNT năm 2021. Qua giám sát cho thấy năm qua xâm nhập mặn và dịch Covid-19 tác động gây thiệt hại không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp (NN), thủy sản. Nhưng với sự điều hành của UBND tỉnh, sự nỗ lực của ngành NN và các địa phương đã vượt qua khó khăn, thách thức để phát triển.
Tăng trưởng nhưng tính bền vững không cao

Khu vực I (nông – lâm – thủy sản) năm 2021 đã khôi phục và lấy lại đà tăng trưởng khá, mức tăng trưởng đạt 5,6% (Nghị quyết của HĐND tỉnh là 4,44%). Diện tích gieo trồng lúa tăng 66,55% so với cùng kỳ, sản lượng tăng 178,21% so với cùng kỳ. Cây rau màu ổn định, sản lượng đạt 69,2% kế hoạch năm, tăng 2,6%. Cây ăn trái diện tích cho trái giảm nhưng diện tích trồng được phục hồi, đặc biệt là vùng cây ăn trái huyện Mỏ Cày Bắc và huyện Chợ Lách chuyển sang mô hình sản xuất cây giống và cây hoa kiểng hiệu quả hơn. Sản lượng dừa đang hồi phục và tăng 2,53% so với cùng kỳ. Đàn bò về quy mô đàn nuôi, sản lượng nuôi ổn định; đàn heo đã hồi phục so với thời kỳ xảy ra dịch tả lợn châu Phi; đàn gia cầm ổn định phát triển. Diện tích nuôi thủy sản tăng 1,91% và sản lượng nuôi tăng 6,14% so với cùng kỳ. Sản lượng đánh bắt thủy sản tăng 2,77%.
Công tác phòng chống hạn mặn được tập trung thực hiện, các hệ thống giải pháp công trình, phi công trình được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả, góp phần tích cực giảm thiệt hại do thiên tai. Công tác hỗ trợ hạn, mặn được triển khai thực hiện, đến nay giải ngân hỗ trợ được 39 tỷ đồng, góp phần khắc phục khó khăn, khôi phục sản xuất. Các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của tỉnh được tập trung xây dựng, chuỗi sản phẩm phát triển khá tốt như: ngành dừa, thủy sản xuất khẩu và bò Ba Tri. Các tổ hợp tác, hợp tác xã được củng cố để liên kết phát triển sản xuất, tham gia phát triển chuỗi giá trị nông sản. Trình độ sản xuất hàng hóa của NN ngày một nâng cao, thu nhập nông dân khá hơn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực NN năm 2021 còn một số hạn chế, tồn tại như tái cơ cấu NN tuy đã đạt được thành công bước đầu nhưng mục tiêu cơ cấu NN chưa tạo ra giá trị tăng thêm lớn cho ngành NN do chưa tổ chức lại sản xuất theo phương thức chuỗi giá trị một cách hoàn thiện. Theo ước tính đến cuối năm 2021, khu vực NN, thủy sản tăng trưởng 5,6% nhưng tính bền vững không cao. Giá cả nông sản thiếu ổn định, tiêu thụ khó khăn, còn tình trạng chuỗi giá trị NN bị đứt gãy. Ngành NN còn lúng túng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu, chưa có định hướng tốt giúp nông dân sản xuất ổn định, bền vững…
Cần chính sách mới, hiệu quả hơn
Để ngành NN tăng trưởng bền vững trong thời gian tới, Đoàn giám sát của Ban Kinh tế và Ngân sách HĐND tỉnh kiến nghị Sở NN&PTNT tham mưu UBND tỉnh tổ chức rà soát, tổng kết đánh giá các chính sách hỗ trợ NN – nông dân – nông thôn để kịp thời đề xuất HĐND tỉnh điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách mới hiệu quả toàn diện hơn, tạo điều kiện thúc đẩy ngành NN phát triển bền vững, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ hoạt động sản xuất của các tổ hợp tác, hợp tác xã.

Nuôi thủy sản và chăn nuôi heo là hai ngành nghề tạo ra tỷ trọng sản phẩm lớn trong ngành NN (khu vực I), là hai lĩnh vực sản xuất có khả năng giúp hồi phục nhanh sản xuất NN khi kiểm soát được dịch Covid-19. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ quy hoạch hệ thống thủy lợi, giao thông vùng nuôi thủy sản đảm bảo yêu cầu quản lý sản xuất, kiểm soát thật tốt dịch bệnh trên thủy sản nuôi. Tổ chức lại vùng nuôi với quy mô lớn hơn, sản xuất sạch, an toàn gắn kết chặt chẽ công nghiệp chế biến xuất khẩu, phát triển thị trường sản phẩm thủy sản. Tăng cường quản lý chất lượng dịch vụ đầu vào như con giống, thức ăn, thuốc thú y, đây là yếu tố quan trọng đảm bảo hiệu quả nuôi. Đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao vào nuôi thủy sản hướng đến phát triển nghề nuôi tôm công nghệ cao. Tổ chức lại chăn nuôi theo quy mô tập trung, ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao trong chăn nuôi, tăng năng suất, tổ chức liên kết thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần quy hoạch chăn nuôi tập trung nhằm đảm bảo yêu cầu an toàn môi trường, kiểm soát dịch bệnh, chủ động cung cầu, chăn nuôi sạch theo yêu cầu thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
Chỉ đạo, quản lý chặt chẽ trong lĩnh vực giống cây trồng, vật nuôi; vật tư NN theo quy định của pháp luật, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản. Xây dựng quy hoạch vùng cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, định hướng cho sản xuất ổn định, bền vững.
Tổ chức rà soát, thống kê đánh giá một cách đầy đủ tình hình các loại dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, để từ đó có giải pháp phù hợp trong phòng chống dịch hiệu quả, nhất là các loại bệnh có thể gây thiệt hại lớn cho ngành NN như bệnh dịch tả lợn châu Phi trên đàn heo, bệnh viêm da nổi cục trên đàn bò, sâu đầu đen gây hại trên cây dừa. Có chính sách thu hút tàu cá đánh bắt xa bờ đưa các sản phẩm đánh bắt về các cảng của tỉnh.
Năm 2021, Bến Tre chịu ảnh hưởng nặng nề của xâm nhập mặn và dịch Covid-19 nhưng cả hệ thống chính trị với tinh thần “Đồng thuận – Sáng tạo” đã quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép” để khôi phục nền kinh tế, nhất là kinh tế NN. Tỉnh cần ban hành chính sách toàn diện hơn để thúc đẩy ngành NN phát triển bền vững.
Nguyễn Phương (Báo Đồng Khởi)
Hà Tĩnh: Nông dân Cẩm Xuyên thu lợi từ nuôi cá vụ ba
Tận dụng diện tích nông nhàn khi không sản xuất lúa, bà con nông dân thôn Đông Trung, xã Cẩm Bình (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) đã đắp bờ, giữ nước và thả nuôi cá vụ ba để tăng hiệu quả kinh tế.
Trên cánh đồng xứ Động thuộc thôn Đông Trung, xã Cẩm Bình (Cẩm Xuyên), người dân đang bơm tháo nước ở tất cả các chân ruộng. Nước rút đến đâu, mọi người bắt cá đến đó. Cá bắt xong được đưa lên đường để bán cho người dân. Cá thả nuôi tự nhiên nên được người dân và thương lái rất ưa chuộng.
Vừa tham gia bắt cá, chị Phan Thị Thủy – thành viên Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung chia sẻ: “Cánh đồng này năm nào cũng canh tác 2 vụ lúa, thời gian nghỉ giữa 2 vụ sản xuất thường để hoang nên năm nay, được địa phương vận động và hỗ trợ, chúng tôi đã đứng ra triển khai thả nuôi cá vụ ba, cách làm này giúp tận dụng triệt để diện tích nông nhàn khi không sản xuất lúa”.
Triển khai mô hình, xã Cẩm Bình đã dồn 10,3 ha diện tích đất lúa của các hộ dân ở xứ Động cho một số hộ thầu và thả nuôi cá. Địa phương cũng thành lập Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung để điều hành, chăm sóc và quản lý cá nuôi.
Sau khi thu hoạch xong vụ lúa hè thu năm 2021, Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung đã tiến hành đắp bờ giữ nước, giăng lưới và mua cá giống về thả nuôi. Bước đầu triển khai mô hình, xã Cẩm Bình đã hỗ trợ tổ hợp tác 4 vạn giống cá rô nhím và cá chép. Ngoài ra, người dân còn thả thêm một số giống cá lóc, cá diếc… Để chăm sóc và quản lý cá, Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung đã phân công 15 thành viên thay phiên nhau bảo vệ cả ngày lẫn đêm.
“Điểm nổi bật của mô hình này là nông dân không phải đầu tư thức ăn cho cá mà tận dụng cỏ, lúa và các loại phù du trong ruộng cho cá ăn. Cá nuôi trên ruộng phát triển rất nhanh nhờ lượng thức ăn tự nhiên dồi dào. Trước khi thu hoạch cá, các thành viên trong tổ hợp tác đã thu hoạch một lần lúa chét, trung bình 1 tổ viên gom được từ 1 – 3 tạ lúa chét. Không phải đầu tư chi phí, công sức nhiều mà có thu nhập nên ai ấy nấy đều phấn khởi” – Tổ trưởng Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung Đặng Thế Luận cho hay.
Sau hơn 2 tháng thả nuôi, thời điểm này, Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung, xã Cẩm Bình đã tiến hành thu hoạch cá. Trong đợt đầu thu hoạch, Tổ hợp tác thu được hơn 6 tạ cá các loại. Trong đó, cá chép đạt trọng lượng từ 0,7 – 1,2 kg, cá lóc 8 – 10 con đạt trọng lượng 1 kg, cá rô nhím 20 – 25 con đạt trọng lượng 1kg…
Thu hoạch đến đâu, Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung đưa cá lên bờ bán cho người dân tới đấy. Theo đó, cá chép được bán với giá từ 40.000 – 50.000 đồng/kg, cá lóc từ 70.000 – 100.000 đồng/kg, cá rô từ 70 – 90.000 đồng/kg… Trong đợt đầu thu hoạch, Tổ hợp tác thả nuôi cá vụ ba thôn Đông Trung thu về gần 50 triệu đồng tiền bán cá các loại.
Đánh giá về mô hình thả nuôi cá vụ ba, ông Nguyễn Minh Duyệt – Phó Chủ tịch UBND xã Cẩm Bình cho biết: “Không phải đầu tư nhiều về vốn, công sức mà hiệu quả mang lại cao nên bà con nông dân hết sức phấn khởi. Mô hình thả nuôi cá vụ ba còn góp phần cải tạo được đất trồng lúa. Một công đôi việc, thu hoạch cá xong, mọi người dọn sạch bờ cỏ, mương tiêu để chuẩn bị cho sản xuất lúa vụ xuân năm 2022. Đồng ruộng sau khi thả cá cũng phì nhiêu, màu mỡ hơn nên trồng lúa sẽ cho năng suất cao hơn. Thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục vận động Nhân dân triển khai và nhân rộng mô hình”.
Phan Trâm (Báo Hà Tĩnh)
Bà Rịa – Vũng Tàu: Nông dân chủ động thay đổi phương thức sản xuất
Giá phân bón, thức ăn chăn nuôi liên tục tăng cao trong thời gian khiến nông dân đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Để giảm lỗ, nông dân đã phải tìm cách tiết giảm chi phí và phương thức sản xuất.
Ông Nguyễn Minh Tuấn (xã Sông Xoài, TX. Phú Mỹ) cho hay, trong 3 năm trở lại đây, giá phân bón liên tục tăng cao. Riêng năm nay, giá các loại phân tăng từ 60-100% so với năm ngoái. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất của nông dân tăng gấp 2-3 lần. Để thích ứng với biến động thị trường, ông Tuấn chủ động thay đổi phương thức sản xuất, chăm sóc cây trồng để giảm bớt chi phí đầu tư. Theo đó, từ cuối năm 2019, ông Tuấn đã mạnh dạn chuyển hơn 1ha bưởi da xanh sang canh tác hữu cơ, vi sinh, 100% không sử dụng phân bón vô cơ và thuốc BVTV. Với phương pháp canh tác này, ông Tuấn đã giảm được hơn 120 triệu đồng tiền đầu tư cho với sản xuất thông thường. Trong khi sản lượng lại ổn định, thậm chí còn tăng, thay vì 16 tấn lên 20 tấn như mọi năm.

Ông Tuấn chia sẻ, dù bước đầu chuyển đổi có gặp nhiều khó khăn, song qua gần 2 năm áp dụng phương pháp bón phân hữu cơ và thuốc vi sinh, vườn bưởi đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong đó, sản lượng luôn duy trì ổn định, chất lượng trái bảo đảm được độ ngọt, ngon đặc trưng. Đặc biệt chi phí giảm mạnh so với phương thức sản xuất trước đây. Với cách làm này, sau khi trừ các chi phí, ông Tuấn thu lợi nhuận gần 300 triệu đồng/năm. “Để thay thế các loại phân bón, thuốc cho cây, tôi dùng sữa, loại men vi sinh ủ lên men cung cấp dinh dưỡng cũng như trừ sâu hại cho cây. Ngoài ra, các loại phân bón vô cơ như phân dê, gà giá thành cũng được bán khá rẻ”, ông Tuấn chia sẻ thêm.
Không riêng ông Tuấn, nhiều nông dân trồng bưởi da xanh cũng đã học theo cách làm này. HTX Bưởi da xanh Sông Xoài có diện tích 200ha, trong đó có gần 100ha đang dần chuyển qua sản xuất hữu cơ, vi sinh hướng tới nâng cao chất lượng trái bưởi, an toàn cho người sản xuất và người tiêu dùng. Hiện Ban giám đốc HTX Bưởi da xanh Sông Xoài cũng đang mở rộng thêm diện tích canh tác hữu cơ, vi sinh để giảm được chi phí và nâng cao chất lượng trái bưởi, từ đó thị trường đầu ra sẽ tốt hơn.
Trong khi đó, đối với các hộ chăn nuôi, nhằm giảm chi phí thức ăn đã tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để làm thức ăn cho gia súc, không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn giảm chi phí đầu vào và tăng thu nhập. Trường hợp của ông Đặng Duy Cường (xã Hòa Long, TP. Bà Rịa) là một ví dụ.
Từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp là hèm rượu, rau xanh, thân cây chuối, bắp… để làm thức ăn cho đàn heo rừng lai gần 50 con, ông Cường đã giảm được 50% chi phí đầu tư cho thức ăn chăn nuôi chỉ 1,7 triệu đồng/con thay vì hơn 3 triệu/con nếu cho ăn bằng cám công nghiệp. Chất lượng thịt cũng ngon hơn hẳn nếu chỉ sử dụng thực phẩm cám công nghiệp. Trung bình mỗi năm ông xuất bán 2 lứa heo, khoảng 60-70 con, sau khi trừ chi phí ông lãi gần 150 triệu đồng.
Ông Nguyễn Chí Đức, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV (Sở NN&PTNT) cho biết, trước thực trạng giá phân bón, thức ăn chăn nuôi liên tục tăng cao trong thời gian qua, trong khi chờ nhà nước có giải pháp kiểm soát chặt các yếu tố đầu vào để giảm gánh nặng cho nông dân, thì việc vận dụng các giải pháp chuyển đổi phương thức sản xuất để giảm chi phí đầu tư đang là giải pháp hiệu quả để đảm bảo thu nhập ổn định cho nông dân trong thời điểm hiện nay. Chi cục cũng đã phối hợp cùng các địa phương triển khai nhiều lớp tập huấn nhằm hỗ trợ, hướng dẫn người dân sử dụng các loại phân bón trồng trọt phù hợp vừa mang lại hiệu quả vừa tránh lãng phí trong chi phí đầu tư. Ngành cũng hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn cho người dân chuyển đổi dân sang phương thức sản xuất sản theo hướng hữu cơ để giảm bớt chi phí đồng thời phát triển lâu dài, bền vững.
Bài, ảnh: HỒNG PHÚC (Báo Bà Rịa – Vũng Tàu điện tử)
Nam Định: Nghĩa Hưng hướng đến nền nông nghiệp giá trị gia tăng cao
Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại ngành Nông nghiệp nên huyện Nghĩa Hưng đã dần hình thành những vùng sản xuất tập trung, năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa quy mô lớn, giá trị gia tăng cao.
Huyện Nghĩa Hưng đã xác định điểm tựa vững chắc cho thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp hiệu quả là tích tụ, tập trung đất đai. Đồng thời quản lý tốt quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp; cơ cấu lại các ngành sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp theo hướng phát huy các lợi thế của địa phương. Huyện cũng chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, đặc biệt ưu tiên đầu tư các công trình thủy lợi, giao thông nội đồng… tạo động lực phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung và chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, các ngành chức năng phối hợp với các xã, thị trấn đẩy mạnh chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân gắn với thực hiện có hiệu quả các mô hình sản xuất thí điểm cây, con để chọn lựa các đối tượng ưu điểm nhất và từng bước nhân rộng nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đến nay, trên địa bàn huyện đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, hiệu quả kinh tế cao hơn so với trước đây. Cụ thể, đã xây dựng vùng trồng lúa chất lượng cao ở tất cả các xã, thị trấn với diện tích trên 6.000ha sản xuất tập trung theo cánh đồng lớn thực hiện “cùng giống, cùng thời vụ, cùng áp dụng quy trình thâm canh, áp dụng cơ giới hoá đồng bộ khâu làm đất, thu hoạch”, thu nhập bình quân đạt 93-98 triệu đồng/ha/năm. Vùng trồng lúa đặc sản Nếp cái hoa vàng, Nếp Bắc, gạo huyết rồng… với diện tích 1.700ha tại các xã Nghĩa Hùng, Nghĩa Hải, Nghĩa Bình, Phúc Thắng, Nghĩa Lợi thu nhập bình quân đạt 95-102 triệu đồng/ha/năm. Vùng trồng cây dược liệu (cây đinh lăng, cây ngưu tất) với quy mô 230ha tập trung tại các xã Phúc Thắng, Nghĩa Minh, thị trấn Rạng Đông… cho thu nhập từ 250-300 triệu đồng/ha/năm. Vùng nuôi thủy sản mặn lợ diện tích trên 1.700ha đa dạng các đối tượng nuôi như: cá bống bớp, cá song, tôm, ngao, cua biển cho thu nhập bình quân 500-600 triệu đồng/ha/năm tập trung tại Cồn Xanh, Nam Điền, Phúc Thắng. Ngoài ra còn các vùng trồng hoa, cây cảnh, nuôi thủy sản nước ngọt tập trung tại các xã Nghĩa Châu, Nghĩa Bình và thị trấn Liễu Đề cho thu nhập bình quân từ 190-260 triệu đồng/ha/năm.
Bên cạnh đó, huyện cũng chuyển đổi được hơn 120ha đất cấy lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như: dưa chuột, cà chua, bí xanh, bí đỏ… Điển hình là các mô hình trồng cà chua tại xã Nam Điền và thị trấn Quỹ Nhất; trồng ngô ngọt xuất khẩu tại xã Phúc Thắng; trồng rau màu các loại tại Nghĩa Phong, Nghĩa Thành cho hiệu quả kinh tế cao gấp 4-5 lần so với trồng lúa trước kia. Tháng 4-2020, UBND huyện đã ban hành Kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa năm 2020 và đã chuyển đổi 565ha sang trồng cây hàng năm; 33ha sang trồng cây lâu năm và 122ha trồng lúa kết hợp với nuôi thủy sản. Thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), huyện Nghĩa Hưng đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn chủ động phối hợp với Văn phòng điều phối nông thôn mới của tỉnh hướng dẫn các xã, thị trấn và các đơn vị lựa chọn, đầu tư xây dựng sản phẩm OCOP theo quy trình, tạo điều kiện để các doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn huyện tham gia. Đến nay, đã có một số sản phẩm của huyện đạt chuẩn OCOP cấp tỉnh như: gạo nếp Giáo Lạc, xã Nghĩa Tân; cá chạch kho thị trấn Quỹ Nhất; nấm bào ngư Gia Bình, xã Nghĩa Phong; nước mắm Lạch Giang, xã Phúc Thắng; mắm tôm Văn Quang, xã Nghĩa Hải…
Thực hiện cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp của Nghĩa Hưng giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 3,03 %/năm; giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích hiện đạt 124 triệu đồng/ha/năm; cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Kinh tế nông thôn của huyện phát triển khá, sản xuất nông nghiệp từng bước chuyển sang quy mô hàng hóa tập trung với trình độ cao hơn, năng suất, chất lượng, giá trị hàng hoá sản phẩm nông nghiệp và hiệu quả sản xuất ngày càng tăng. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc cơ cấu lại ngành Nông nghiệp của huyện Nghĩa Hưng vẫn còn khó khăn, hạn chế. Huyện nằm ven biển có nhiều lợi thế từ biển cho phát triển kinh tế song đây cũng là khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, lũ, bão, vì vậy sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro, khó khắc phục hiệu quả, thiệt hại kinh tế thường lớn. Giá bán các sản phẩm nông, thủy sản bấp bênh do thị trường tiêu thụ không ổn định. Việc sản xuất theo hướng chất lượng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP… chưa được người nông dân thật sự quan tâm bởi giá bán nông sản sản xuất, chế biến theo chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm không cao hơn so với sản phẩm thông thường, trong khi chi phí sản xuất cao. Vẫn còn nhiều hộ nông dân chậm thay đổi tập quán canh tác, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nên quy mô sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, cản trở việc ứng dụng tiến bộ khoa học và cơ giới hóa vào sản xuất. Cơ chế, chính sách hỗ trợ, mức đầu tư từ ngân sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đồng bộ.
Đồng chí Trần Trung Hiếu, Phó Chủ tịch UBND huyện cho biết: Để thực hiện cơ cấu lại ngành Nông nghiệp một cách hiệu quả, thời gian tới, huyện Nghĩa Hưng sẽ có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX sản xuất giống cây trồng, con nuôi và cơ sở chế biến nông sản, thực phẩm trên địa bàn. Đồng thời, hỗ trợ các đơn vị phát triển sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng cánh đồng lớn, cánh đồng liên kết. Tăng cường, tiếp nhận khảo nghiệm, đưa các tiến bộ kỹ thuật mới trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Qua đó lựa chọn, chuyển giao nhanh các giống cây, con có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, các biện pháp kỹ thuật thâm canh mới có hiệu quả vào sản xuất. Nhân rộng nhanh các mô hình tiến bộ kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất nông nghiệp đại trà. Tổ chức xây dựng các mô hình sản xuất lương thực, thực phẩm an toàn theo quy chuẩn VietGAP, GlobalGAP phục vụ nhu cầu của thị trường. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, HTX mở rộng các loại hình dịch vụ, nhất là liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng kinh tế.
Việc cơ cấu lại ngành Nông nghiệp theo hướng năng suất, chất lượng, hiệu quả ở Nghĩa Hưng bước đầu đã làm thay đổi phương thức sản xuất của nông dân theo hướng tích cực, qua đó tăng giá trị sử dụng tài nguyên đất, tạo ra nông sản hàng hóa bảo đảm an toàn thực phẩm cung cấp cho thị trường. Với các sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng cao đã góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của người dân trong huyện.
Bài và ảnh: Ngọc Ánh (Báo Nam Định)